Phan Châu Trinh gặp Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tại Pháp năm 1922


Phan Châu Trinh gặp Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tại Pháp năm 1922

Hội chợ đấu xảo ở Marseille là cơ hội để Phan Châu Trinh hành động. Ông xuống Marseille đầu năm 1922, để làm việc và cũng để tiếp xúc với những người Việt sang Pháp dự đấu xảo. Quan trọng nhất là những buổi gặp gỡ giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh. Qua những tài liệu được biết, thì ít nhất có hai lần: một lần ở Marseille và một lần tại Paris.

1- Theo một mật báo gửi về sở An Ninh Marseille ngày 11/5/1922, có cuộc gặp gỡ giữa ba người: Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Trong cuộc họp này, Phan Châu Trinh ngỏ ý muốn lật đổ Nam triều, lập Quốc hội An Nam với các dân biểu để cai trị cùng với chính phủ Pháp. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh khuyên không nên, vì người trí thức và người dân vẫn còn gắn bó với nền quân chủ. Vả lại vua nước Nam không giống như vua Louis 14 hay 16 của Pháp đã áp bức làm khổ dân; và người dân An Nam cũng chưa đủ trình độ để sử dụng quyền Quốc hội. Phải chờ. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh nói sẽ suy nghĩ xem có thể đóng góp gì cho chương trình hành động của Phan Châu Trinh. (Theo Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925, Đông Nam Á 1983, trang 160).

2- Một buổi họp mặt khác, được ông Lê Thanh Cảnh ghi lại trong tập Ký ức về trường Quốc học (có lẽ đây là nội san của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Quốc Học), và in lại trong tập tài liệu tựa đề Kỷ niệm 115 ngày sinh ông Nguyễn Văn Vĩnh, do gia đình ấn hành năm 1997, tập III, trang 21. Rất tiếc người biên tập không ghi rõ nguồn tham khảo: nội san số mấy, năm tháng nào v.v... Tuy nhiên, nếu dựa vào mấy chữ "câu chuyện năm mươi năm trước" mà tác giả ghi trong "Lời người viết", thì có thể đoán bài này được viết vào khoảng 1970-1975 ở trong Nam, vì tác giả dùng hai chữ "anh Quốc" rất tự nhiên.

Dưới tựa đề "Thử đi tìm một lập trường tranh đấu cho dân tộc Việt nam", trước hết ông Lê Thanh Cảnh thuật lại bối cảnh cuộc họp mặt: Nhân dịp phái đoàn Nam triều đi dự cuộc triển lãm do Pháp Quốc Sử Địa tổ chức tại Ba Lê "Ô. Trần Đức nói khẽ vào tai tôi, bảo hai anh em chúng mình mời bốn cụ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Ngọc Thiện, Cao Văn Sến đến chiều hôm ấy dùng cơm tại khách sạn Montparnasse. Chúng tôi nhân mời thêm cụ Phan Tây Hồ, anh Quốc, vợ chồng Trần Hữu Thường và ông Hồ Đắc Ứng".

Đáng chú ý nhất là đoạn tác giả ghi lại cuộc tranh luận giữa năm nhân vật: Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Chúng tôi trích lại những đoạn chính, lướt qua ý kiến Phan Châu Trinh (giống như những điều ông đã viết trong thư gửi NAQ) mà chú trọng vào ý kiến những người khác:


"Cụ Tây Hồ bắt đầu nói: Tôi đã gặp Nguyễn Ái Quốc từ 10 năm trước đây mà tôi thấy anh chủ trương cách mệnh triệt để quá táo bạo nên tôi không thể theo anh được, và anh cũng không chấp nhận đường lối của tôi. (...)

- Anh Quốc tiếp lời: Mấy hôm nay anh Cảnh qua đây có tiếp xúc nhiều với tôi và có nói cho tôi một câu ước mơ của cụ Trần [Cao] Vân: Nếu cuộc khởi nghiã của vua Duy Tân thành công thì sau này việc đầu tiên của chúng ta sẽ làm là viết chữ Việt Nam không phải chữ "Tuất" một bên, mà phải viết chữ Việt là Phủ Việt, "Rìu Búa", mới kiện toàn được sự nghiệp cách mệnh. Sở dĩ tôi chủ trương cách mệnh triệt để là xưa nay muốn giành độc lập cho tổ quốc và dân tộc thì không thể nào ngã tay xin ai được mà phải dùng sức mạnh như cụ Trần Cao Vân đã nói là phải dùng BÚA RÌU.

- Ô. Nguyễn Văn Vĩnh cướp lời ngay, đã bênh vực chủ trương của mình và cũng để giác ngộ anh Quốc - Tôi đã từng đứng trong hàng ngũ Đông Kinh Nghiã Thục cùng các bậc tiền bối và rất đau đớn thấy hàng ngũ lần lượt tan rã và hầu hết phần tử ưu tú chiến sĩ quốc gia bị tiêu diệt: Hết phong trào Đông Kinh Nghiã Thục, đến chiến khu Yên Thế của Đề Thám ở Bắc, rồi đến vụ xin thuế ở miền Trung... (...) Bao nhiêu chiến sĩ đều gục ngã hoặc còn vất vưởng sống ở Côn Đảo, Thái Nguyên, Lao Bảo hay Banmêthuột. Bạo động như anh Quốc nói là thậm nguy! (...) Sở dĩ tôi theo lập trường TRỰC TRỊ (administration directe) là kinh nghiệm cho tôi thấy Nam Kỳ trực trị tiến bộ quá xa hơn Trung Bắc. Mà Bắc Kỳ nhờ chế độ mập mờ, nửa Bảo Hộ nửa Trực Trị (không công khai) mà còn hơn Trung Kỳ quá xa. (...). Cứ trực trị cái đã rồi sau khi được khai hoá theo đà tiến bộ thì tức khắc dân chúng tự có sức mạnh mà trồi đầu lên. Nói Trực trị tôi chẳng khi nào chịu giao nước Nam cho Tây đâu. Quá khứ đường lối tranh đấu của tôi, cuộc đời thiếu thốn của tôi đã hùng hồn bảo đảm cho lời nói của tôi hôm nay.

-
Ô. Phạm Quỳnh tiếp: Có lẽ ngay trong tiệc này tôi đã thấy có rất nhiều lập trường tranh đấu chống lại chủ thuyết mà tôi hoài bão: "QUÂN CHỦ LẬP HIẾN". Nói đến quân chủ thì phần đông tỏ vẻ lo sợ chế độ chuyên chế. Nhưng xin đồng bào trương mắt nhìn hai nước Anh và Nhật. Với nền Quân chủ họ đã văn minh tột mức và dân chủ còn hơn các nền dân chủ cộng hoà khác nhiều lắm. (...) Vua chỉ là người đứng lên "thừa hành" bản hiến pháp mà chính nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định (...)"

Sau lời Phạm Quỳnh biện hộ cho chế độ quân chủ lập hiến, đến lời Cao Văn Sến biện hộ cho việc dùng văn minh Tây phương để tiến hành dân chủ; và nhìn nhận rằng ở Nam Kỳ đồng bào tiến bộ hơn nên thực dân không dám ăn hiếp như ở Trung và Bắc. Ông Lê Thanh Cảnh viết tiếp:


"Tôi khẩn khoản xin quý cụ là bậc tiền bối nên thảo luận ngay một kế hoạch hay hệ thống nào để làm việc cho có hiệu quả về sau. 

Anh Quốc nóng nẩy bảo ngay: Thì xin Chú nói ngay ý kiến của Chú ra.

- Tôi tiếp lời: Cũng như anh đã trả lời cho cụ Phan mấy hôm trước đây, tôi muốn nghe ngóng tất cả để sau này áp dụng một chủ nghiã thực tiễn, lấy Văn hóa Việt Nam làm gốc. Có thế mới hợp với tính tình dân tộc Việt Nam: Hành động gì bây giờ là thất bại ngay, mà cũng như cụ Phan Tây Hồ đã trịnh trọng cảnh cáo hai anh em chúng tôi mấy kỳ gặp gỡ trước đây, mà tôi rất bái phục: "Vô bạo động, bạo động tắc tử, vô vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu. Dư hữu nhất ngôn dĩ cáo ngộ đồng bào. Viết: Bất như "Học".

Anh Quốc quát to tiếng: "Nầy cụ Tây Hồ, nếu Cụ qua làm Toàn Quyền Đông Dương thay mặt thực dân cũng chỉ nói như thế thôi. Bó tay mà chịu lầm than sao? Không được!

Tôi sợ anh Quốc đi quá trớn, đứng lên thưa, ôn hoà: Tôi xin anh suy nghĩ thêm về lời khuyên của Cụ Tây Hồ. Nếu chúng ta khôn khéo thì "bất chiến tự nhiên thành".

- Anh Quốc lại quát lớn: "Lại thêm chú này nữa kìa!"

Tôi được dịp kịch liệt bác bỏ luận điệu anh Quốc và bênh vực chủ thuyết của cụ Tây Hồ".

Lời lẽ trong cuộc tranh luận này được ông Cảnh ghi lại theo trí nhớ, có thể không đúng nguyên văn, nhưng phản ảnh được không khí buổi họp và xác định một số thông tin sau đây:

- Chủ trương trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh dựa trên sự quan sát tình hình dân trí trong Nam cao hơn Bắc và Trung. Việc này được chứng minh qua tình hình báo chí mở rộng tại Nam Kỳ và những phong trào chống Pháp rất mạnh trên báo ở trong Nam do Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, rồi nhóm Trốt kít... viết.


- Nguyễn Tất Thành phản đối Phan Châu Trinh bằng lời lẽ nặng nề, khác hẳn cung cách "chú cháu" ngày trước, nhưng lại không có phản ứng gì đối với quan điểm của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Cao Văn Sến.


- Để bảo vệ quan niệm bạo lực cách mạng, Nguyễn Tất Thành đưa ra biểu tượng Búa Rìu, của đảng cộng sản,nhưng lại giải thích bằng Hán tự và dùng ý nghiã Búa Rìu của Trần Cao Vân. Sau này Trần Huy Liệu cũng đề cao vai trò Trần Cao Vân nhưng bị Phan Khôi phản bác, Phan Khôi cho rằng Thái Phiên mới là người chủ chốt trong vụ vua Duy Tân, Trần Cao Vân chỉ là "nửa là nhà nho gàn, nửa là thầy bói kiêm thầy pháp". (Trong bài "Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong cuộc biến ở Huế năm 1916").

Những sự kiện này, mới xem qua, gần như không đáng lưu ý, nhưng sự thực nó có tầm quan trọng: Việc đề cao Trần Cao Vân là để nâng cao biểu tượng Búa rìu của đảng cộng sản, gắn liền Búa Rìu với hình ảnh cách mạng của vua Duy Tân. Và có lẽ Phan Khôi đã thấy chủ đích ấy, ông thấy nó trái ngược với sự thật lịch sử nên ông phản bác lại bằng loạt bài trên báo Sông Hương năm 1936.

Hai buổi họp mặt ở Marseille và Paris năm 1922, chứng tỏ Phan Châu Trinh sửa soạn con đường về nước, ông muốn chia sẻ quan điểm đấu tranh của mình và tìm sự hợp tác của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.


Lá thư của Phan Châu Trinh và sự phản bác kịch liệt Tây Hồ của Tất Thành ở Montparnasse, chứng tỏ sự đoạn tuyệt giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành, từ 1922.

Nguyễn Tất Thành, người (ban đầu) Phan thân nhất, coi như cháu, lại cùng chung một nền giáo dục nho học như ông, có thể Phan đã hy vọng Tất Thành sẽ "nối nghiệp", nhưng Tất Thành lại theo con đường trái ngược: chủ trương bạo động cách mạng và không về nước theo kế hoạnh "Ngũ Long tề khởi" do ông đề xướng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước tìm người thừa kế. Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Tây Hồ không chọn Nguyễn An Ninh? Mặc dù, Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng nổi tiếng từ thời niên thiếu mà thành tích chống Pháp đã trở thành huyền thoại: 


"Thi đậu bằng Brevet Elémentaire [tương đương với Trung học phổ thông], nhà ái quốc đi làm báo tiếng Pháp, do người Pháp điều khiển. Trong thời gian làm báo, dù chỉ là một cộng sự viên tầm thường, lượm tin chó cán, nhưng Ninh đã nổi tiếng rồi, vì sự bất khuất, hay đập lộn với người Pháp, hay chưởi người Pháp. Chính trong thời gian nầy, trong nước xẩy ra nhiều chuyện bạo động, nào Phan Xích Long khởi nghiã, Trần Cao Vân rước vua Duy Tân rời kinh thành Huế, Lương Ngọc Quyến bạo động ở Thái Nguyên. Dù những phong trào ấy bị thất bại, song gieo vào lòng người dân thời đó một mầm mống sâu đậm trong cõi lòng, trong số đó có nhà ái quốc thanh niên Nguyễn An Ninh" (Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 10) (2).

Nhưng Nguyễn An Ninh Tây quá, sôi động quá. Phan Châu Trinh muốn một người nho học, điềm tĩnh, gần gụi với tư tưởng của ông hơn, và ông đã tìm thấy trong nhà nho Phan Khôi.


Đám tang Phan Châu Trinh - Sự xuất hiện của Phan Khôi
 
Phan Châu Trinh chủ trương "Ngũ Long tề khởi" từ năm 1922, nhưng đến tháng 6/1925, ông mới về được nước, và đến tháng 3/1926, ông mất.


"Cụ Phan Châu Trinh về Sàigòn một lượt với Ninh, đương ở nhà Ninh tại Quán Tre, kẻ thăm, người viếng rần rần rộ rộ" (Lê Văn Thử, Hội kín Nguyễn An Ninh, trang 25).

Nguyễn An Ninh bị bắt hôm trước (đêm 20/3/1926) thì hôm sau Phan Châu Trinh mất (24/3/1926). Phương Lan Bùi Thế Mỹ thuật lại như sau:


"Chính Đặng Văn Ký, theo sự uỷ thác của Ninh, vào tù, lo săn sóc bịnh tình cụ Phan Châu Trinh. Khi cụ Phan bịnh nặng, Ký cùng với các bạn đem dời cụ Phan lên nhà cụ Nguyễn An Cư; chú ruột của Ninh trị bịnh rồi cụ Phan mất tại đấy. Đặng Văn Ký hợp với Huỳnh Đình Điển, Phan Khôi đem cụ Phan về khách sạn Bá Huê Lầu, đường Pellerin giờ là Pasteur do Huỳnh Đình Điển là chủ nhơn khách sạn, thành lập ủy ban làm quốc táng, Phan Khôi đảm nhận viết lời hiệu triệu quốc dân. Đặng Văn Ký nhóm Jeune Annam lo liên lạc tìm đất chôn". (Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 130). 

Bùi Thế Mỹ viết nhầm một chi tiết: Ninh uỷ thác cụ Phan cho Đặng Văn Ký từ trước, trước khi vào tù. Vì khi Ninh vào tù thì cụ Phan mất.

"Lễ quốc táng của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh được tổ chức châu đáo vĩ đại. Quàn xác gần một tuần, tại Bá Huê Lầu của Huỳnh Đình Điển, người chen chúc vô dâng hương nhà chí sĩ không biết bao nhiêu mà đếm. Nườm nượp ra vô cả ngày lẫn đêm. Ngày đưa đám thiên hạ trùng trùng điệp điệp từ bốn phương xa gần tụ họp tới. Sấp hàng từ đầu cầu Mống, cái cầu ở tận trên đường Thống Nhất. Câu đối, tràng hoa tiễn đưa vô số kể." (Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 164).

Sự thành công trong việc tổ chức đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh là do nhiều yếu tố hợp lại, chúng tôi sẽ bàn đến trong một dịp khác. Ở đây chỉ xin nhắc đến sự đóng góp của một người, ở hậu trường, đã nổi trội, có "công" hơn: Nhiều dấu hiệu cho thấy từ khi về nước, Phan Châu Trinh đã tìm Phan Khôi để gửi gấm "đại sự".


Về việc này, Nguyễn Q. Thắng viết: "...năm 1925 khi về nước, Phan Châu Trinh đã cho vời Phan Khôi vào Sàigòn để viết một quyển sách về đời hoạt động và sách lược cứu nước của Tây Hồ. Phan Khôi đã viết xong bản thảo có tên "Phan Châu Trinh" nhưng bị phủ toàn quyền Đông Dương cấm in. Bản thảo đã thất lạc (theo "mật báo về tác phẩm Phan Châu Trinh của Phan Khôi" của sở mật thám Nam Kỳ, gởi thống đốc Nam Kỳ ký ngày 1/6/1926). Sách "Phan Châu Trinh" dày 94 trang đánh máy, do nhà in Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh xuất bản nhưng không phát hành được." (Nguyễn Q. Thắng, Phong Trào Duy Tân, những khuôn mặt tiêu biểu, trang 478).

Vậy Phan Khôi là ai? Năm 1925, Phan Khôi chưa phải là một tên tuổi nổi trội trong giới báo chí tranh đấu như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường. Nhưng Phan Khôi đã bắt đầu sự nghiệp làm báo với hai nhà báo lừng danh Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, những người mà Phan Châu Trinh tìm gặp năm 1922 ở Pháp.


Phan Khôi được Phan Châu Trinh giao cho việc viết lại lịch sử đời mình.

Từ trọng trách ấy, Phan Khôi đảm nhiệm viết lời Hiệu triệu quốc dân trong đám tang Phan Châu Trinh.


Thụy Khuê