Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh - Về nền tảng đạo đức Nho giáo (P.2)


Những điều cần học hỏi nơi văn minh Âu Tây
Đạo đức Nho giáo chỉ phát huy trong phạm vi gia đình, nhưng lại thất bại khi bước sang lĩnh vực quốc gia. Dưới thời quân chủ, ở nước ta không có luân lý quốc gia:


“Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có. Tôi xin nói tạm rằng quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không nói đến “dân và nước” vì dân không được bàn việc nước!” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 937-938)

Nói cách khác, “luân lý quốc gia” dưới chế độ quân chủ thực chất cũng chỉ là một thứ “luân lý gia đình” mở rộng. Vua quan coi dân như con, cư xử với dân như con cái, nhưng tệ hơn so với quan hệ cha-con bởi vì vua không có trách nhiệm gì với dân nhưng một khi nổi giận lại có thể “giết cả ba họ” (tru di tam tộc). [1] Phan Châu Trinh so sánh quan hệ vua-tôi với quan hệ cha-con:

"Mà còn ông cha, ông thầy, ông chồng thì có làm ích cho ta, chớ có khi nào làm hại làm ác như thế. Còn khi cha mẹ ta đẻ ta ra, thì đói, no, sống, chết thế nào cũng ở trong tay cha mẹ ta, nào ông vua có biết đến đâu. Thế mà đến hồi tuổi ta lồng lộng [2] lớn lên thì đánh một tiếng là “tôi trời con vua”. Ông vua muốn cho sống thì được sống, ông vua muốn cho chết thì phải chết, ta không có thể chối được, là nghĩa lý gì?” (NQT, tr. 458; NVD, tr. 972)

Vì chế độ quân chủ hạn chế đạo đức Nho giáo trong phạm vi luân lý gia đình, cho nên muốn tiến lên luân lý quốc gia, cần phải học hỏi ở văn minh Âu Tây. Nói cách khác, muốn xây dựng đạo đức luân lý phù hợp với chế độ dân chủ, phải học hỏi nơi các nước phương Tây.

Để phân biệt luân lý gia đình với luân lý quốc gia, luân lý xã hội, Phan Châu Trinh sử dụng các khái niệm tư đức công đức. Những giá trị đạo đức truyền thống (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần kiệm…) mà Nho giáo đã đem lại cho dân tộc Việt Nam trong phạm vi luân lý gia đình được gọi là tư đức (đạo đức riêng) hay đạo đức nhỏ. Khi bước sang lĩnh vực luân lý quốc gia và luân lý xã hội, cần có những giá trị đạo đức mới gọi chung là công đức (đạo đức chung) hay đạo đức lớn. Đạo đức lớn tạo điều kiện cho đạo đức nhỏ phát triển; ngược lại, nếu đạo đức lớn không có thì đạo đức nhỏ cũng không còn:

“Đạo đức lớn ta không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của mỗi người, ta có hay không? Thưa rằng: Không! Một xứ đã bị chuyên chế thì tính chất gì thuộc về đạo đức cũng không thể nào sinh sản được.”
(NQT, tr. 498; NVD, tr. 947)

Để có thể hiểu rõ hai khái niệm tư đức công đức, chúng ta cần tìm hiểu thêm quan niệm đạo đức học của Montesquieu - một trong hai nhà tư tưởng đã có ảnh hưởng lớn lao đến quan niệm chính trị của nhà chí sĩ họ Phan.

Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần của pháp luật” (De l’esprit des lois) xuất bản vào năm 1748, Montesquieu có sử dụng khái niệm “đức hạnh chính trị ” (vertu politique). Ông giải thích về khái niệm này như sau:

“Người ta có thể định nghĩa đức hạnh, đó là tình yêu đối với luật pháp và tổ quốc. Tình yêu đó đòi hỏi một sự ưu ái liên tục đối với lợi ích chung hơn là lợi ích của riêng mình, tình yêu đó đem lại tất cả những đức hạnh riêng bởi vì những đức hạnh riêng không là gì khác hơn chính sự ưu ái đó.

Tình yêu đó đặc biệt gắn liền với các nền dân chủ. Chỉ trong các nền dân chủ, chính quyền được giao phó cho mỗi công dân. Giờ đây, chính quyền cũng giống như mọi thứ khác trên đời: để giữ gìn nó, phải yêu nó.”
[3]

Khái niệm “đức hạnh chính trị” (vertu politique), được định nghĩa như “sự ưu ái liên tục đối với lợi ích chung hơn là lợi ích riêng” (une préférence continuelle de l'intérêt public au sien propre), là khái niệm tương đương với khái niệm “công đức” (đạo đức chung) của Phan Châu Trinh. Còn “những đức hạnh riêng” (vertus morales particulières) tương đương với khái niệm “tư đức” (đạo đức riêng), chính là những đức hạnh thông thường mà mọi người trong mọi xã hội đều phải theo.

Để tránh sự hiểu lầm, trong lời khuyến cáo viết ở đầu tác phẩm nói trên, Montesquieu còn giải thích thêm :

“Để hiểu rõ bốn quyển đầu của tác phẩm này, cần phải thấy rằng cái mà tôi gọi là đức hạnh (la vertu) trong một nước cộng hoà chính là tình yêu đối với tổ quốc, nghĩa là tình yêu đối với sự bình đẳng. Đó không phải là một đức hạnh về mặt đạo đức (vertu morale), cũng không phải là một đức hạnh của người ki-tô-giáo (vertu chrétienne), mà là đức hạnh chính trị (vertu politique); và chính nó là động cơ làm chuyển động chính quyền cộng hoà, cũng như danh dự (honneur) là động cơ vận hành chế độ quân chủ. Do đó tôi gọi tình yêu tố quốc và tình yêu sự bình đẳng là đức hạnh chính trị. Tôi đã có những ý tưởng mới; do vậy cần phải tìm ra những từ ngữ mới, hoặc đem lại cho những từ ngữ cũ những ý nghĩa mới. Những người không hiểu điều này cho rằng tôi nói những điều vô lý, và là những điều gây công phẫn ở tất cả các nước trên thế giới, bởi vì ở tất cả mọi nước, người ta đều mong muốn đạo đức.” [4]

Trong công đức, Phan Châu Trinh đặc biệt nhấn mạnh đến lòng yêu nước (mà ông gọi là lòng thương nước). Đây chính là giá trị đạo đức cần thiết cho người Việt Nam trong mối quan hệ giữa cá nhân với quốc gia, là giá trị chủ yếu làm nên tinh thần quốc gia, chủ nghĩa quốc gia. Giá trị này vắng bóng trong suốt lịch sử của nước ta, khiến cho nước ta không có luân lý quốc gia. Lý do là vì dưới chế độ quân chủ, quan hệ giữa người dân với quốc gia bị thu hẹp trong mối quan hệ vua-tôi, cho nên dân không biết đến lòng yêu nước mà chỉ biết đến lòng trung quân (trung thành với vua):

“Vì thế cho nên dân chỉ biết nghĩa tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc, gặp vua tử tế, làm nhiều sự công bình thì dân thương, dám liều chết ra đánh giặc giúp vua; gặp vua tàn bạo, làm nhiều điều độc ác thì dân ghét, muốn rửa hờn, mở cửa thành cho giặc vào. Thí dụ như hồi nước Pháp đánh Bắc kỳ chỉ có 90 tên lính mà trong 24 giờ đã hạ được bốn thành, mà lính Nam không ai ra bắn trả lại một phát súng. Hồi ông Nguyễn Huệ kéo quân ở Huế ra Thăng Long, Nguyễn Chỉnh [5] có quân đóng ở đó, song chưa đánh đã thua, khiến vua Chiêu Thống phải chạy đi đường, bị dân bóc lột. [6] Ông Mạnh có nói rằng: ”Vua coi dân như cỏ rác, thì dân coi vua như người đi đường”, đã coi như người qua đường thì còn luân lý gì. Việc gì mà chẳng bóc lột.” (NQT, tr. 488; NVD, tr. 938-939)

Lòng yêu nước của nhân dân ta đã bị “cái độc chuyên chế” giết chết, vì người dân không được bàn chuyện chính trị, không được lo việc nước:

“Không phải là cái độc chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong óc người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương nước đã có luật Gia Long cấm. Những kẻ học trò và dân gian không được nói đến việc nước, lo đến việc nước.” (NQT, tr. 489; NVD, tr. 940)

Đáng lẽ là một giá trị đạo đức được vinh danh, trong một xã hội chuyên chế lòng yêu nước lại trở thành một nỗi tủi nhục; người yêu nước bị khinh như kẻ tội phạm:

“Thương nước thì phải tội tù (!) cho nên những người nhà thế phiệt giữ mình cho đến nỗi uốn nắn con từ trong nhà, lấy sự lo việc đời, sự thương nước làm sợ. Sợ quá! Hình như nói đến sự đó thì phải bị khinh, bị nhục như kẻ cắp kẻ trộm vậy.” (NQT, tr. 489; NVD, tr. 940)

Phan Châu Trinh cho rằng cần phải khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân ta thì nguyện vọng tự do, độc lập của dân tộc ta mới thành tựu được:

“Từ nay người dân Việt Nam ta phải biết thương nước là tính tự nhiên trời đã phú cho, không thù nghịch gì với người Pháp. Phải có quốc gia luân lý in sâu vào óc thì ước ao tự do độc lập của dân tộc ta sau này mới thành tựu được.” (NQT, tr. 491-492; NVD, tr. 942)

Phan Châu Trinh coi lòng yêu nước là cốt lõi của chủ nghĩa quốc gia, của chế độ dân chủ là bởi vì cũng như Montesquieu, ông tin rằng lòng yêu nước mới chính là động cơ làm chuyển động chế độ dân chủ (chế độ cộng hoà):

“Ông Montesquieu có nói: “Dân sống dưới quyền chuyên chế của nhà vua thì chẳng biết gì là đạo đức cả, chỉ lấy vị thế làm lớn nhỏ, làm danh dự mà thôi [7] , duy dân chủ mới thật còn có đạo đức.” (NQT, tr. 497; NVD, tr, 947)

Chữ “đạo đức” nói ở đây tức là “đức hạnh chính trị” (vertu politique), “tình yêu tổ quốc” (l'amour de la patrie) trong quan niệm của Montesquieu, cũng chính là cái mà Phan Châu Trinh gọi là lòng thương nước, thuộc về phạm trù công đức (đạo đức chung) hay đạo đức lớn.

Mặt khác, ông nhấn mạnh lòng yêu nước bởi vì ông tin rằng nó sẵn có mầm mống trong bản chất của người dân Việt:

Nay mình trả lời như thế này thì họ cấm sao được: “Một nòi dân cùng một giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong miếng đất [8] mà ông cha nó đã đổ máu, đổ mồ hôi, đổ nước mắt để vỡ vạc ra, thành ra một nước lưu truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì được hưởng quyền lợi trong miếng đất ấy, được sống ở đó, chết chôn ở đó, giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm không ai cấm đoán được. Loài dân ấy không như đám Do Thái ở Âu châu, đi đâu cũng bị ngược đãi, không như bọn Hắc nô ở Mỹ châu đi tới đâu cũng bị giết chóc, thì cũng không khi nào chịu quên ơn miếng đất mà chúng nó thường gọi là “Tổ quốc” của chúng nó bao giờ. Một loài dân như thế nay bảo nó đừng thương “Tổ quốc” thì bảo nó thương ai?” Nếu ta trả lời hẳn hoi như thế thì dầu gặp kẻ tàn bạo nào cũng không thể bỏ ta được. Thế thì sao [9] ta không dám nói thương nước ? (NQT, tr. 490; NVD, tr. 940-941)

Điều cần nhấn mạnh là lòng yêu nước trong quan niệm của Phan Châu Trinh không đi kèm với lòng hận thù đối với dân tộc khác, không đi kèm với tiếng đao kiếm hoặc tiếng súng:

“Cái “thương nước” tôi nói đây không phải là xúi dân “tay không” nổi lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác về phá loạn trong nước đâu! Tôi xin thưa: Nước ta đã hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, thì bây giờ ta phải đem lòng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau. Hễ người ta làm việc gì bất công thì mình phải hiệp sức nhau lại mà chống, còn làm việc gì phải chăng thì mình cũng phải nhìn nhận, chớ có thấy chính quyền mình mất rồi mà đem lòng căm tức không kể đến việc hay của người ta. Thế thì lòng thương nước của dân Việt nam có hại gì đến quyền lợi người Pháp không? Tôi xin thưa rằng: không. Dân Việt Nam thấy người nào làm hại cho nước nó thì nó ghét, đó là lẽ tự nhiên. [10] ” (NQT, tr. 490-491; NVD, tr. 941)

Ông cho rằng yêu nước cũng phải yêu cho đúng cách :

“Thương nước cho phải đường mới là thương nước, nếu thương không phải đường thì đã không ích gì cho ai mà còn làm hại sinh linh nữa. Nay ta nói rằng thương nước, nhưng chỉ thương bằng lỗ miệng, nằm ỳ ra đó kêu người đến thì có khác gì đem đầu đi ở đầy tớ người này xong lại đem đầu đi ở đầy tớ với anh khác.”
(NQT, tr. 491; NVD, tr. 940)

Một mặt ông kêu gọi phát huy lòng yêu nước trong nhân dân, mặt khác ông lại chủ trương “liên hiệp Pháp-Việt”, không hận thù với nước Pháp. Nhiều người cho ông là ngây thơ, là “quá tin tưởng vào thực dân Pháp”. Thực ra Phan Châu Trinh không hề là người ngây thơ. Ông không hề tin vào thiện chí của cánh hữu hoặc giới thực dân ở Pháp, cũng không trông chờ vào sự ban ơn của họ. Nhưng ông tin tưởng vào chế độ dân chủ ở Pháp, vào thế mạnh ngày càng lên cao của phong trào cánh tả. Ông không hề ỷ lại vào bên ngoài, mà trước sau vẫn chủ trương tự lực cánh sinh, và nếu còn sống chắc chắn ông sẽ tiếp tục công việc xây dựng một phong trào chính trị cánh tả ở Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Đảng Cấp tiến và Đảng Xã hội Pháp. Đó sẽ là một phong trào đấu tranh công khai, bất bạo động dựa vào sức mạnh của quần chúng. Ý định đó không thành công vì ông mất sớm, vì không có người kế tục, chứ không hẳn đã là một ý tưởng không có cơ sở thực tế.

Nhưng đạo đức chung (công đức) không chỉ bao gồm luân lý quốc gia; nó còn bao gồm cả phần luân lý xã hội. Theo Phan Châu Trinh, cái chủ ý hướng đến toàn thế giới, toàn thể loài người thực ra đã có từ trong đạo Nho chân chính:

“Tuy trong sách nho có câu: “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ” (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Hai chữ “thiên hạ” đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi.”
(NQY, tr. 492; NVD, tr. 942)

Ở các nước Á Đông, luân lý không nâng lên được tầm mức quốc gia thì làm sao nâng lên được tầm mức toàn thế giới ? Muốn bình thiên hạ, tức là lo đến việc của nhân quần xã hội, của thế giới, trước hết phải củng cố chủ nghĩa quốc gia, xây dựng chế độ dân chủ, sau đó mới có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, lo cho thế giới.

Do chỗ nước ta phải bước sang chủ nghĩa quốc gia trước khi tiến đến chủ nghĩa xã hội, Phan Châu Trinh chưa bàn nhiều đến những giá trị khác của đạo đức chung liên quan đến chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, ông cũng đã nêu ra một số giá trị mà ông nhận thấy trong xã hội Pháp. Đó là những nghĩa vụ của người trong nước đối với nhau như: nghĩa vụ bảo vệ người yếu, nghĩa vụ giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, còn có nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người , tức là tình nhân loại, hay là cái mà các nhà xã hội chủ nghĩa thường gọi là tinh thần quốc tế (internationalisme). Ông nhận xét về người dân các nước Âu châu như sau:

“Chẳng những họ lo ở nước họ [11] mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.” (NQT, tr. 483; NVD, tr. 934)

Điều làm chúng ta ngạc nhiên là khi nói về luân lý xã hội, Phan Châu Trinh ít nhấn mạnh đến vai trò của Nhà nước, mà lại chú ý đến đoàn thểcông đức, đến lợi ích chung (công ích). Có thể giải thích thái độ này bằng hai lý do.

Trước hết, Phan Châu Trinh cho rằng một xã hội tốt đẹp là một xã hội dựa trên đạo đức luân lý chứ không dựa trên quyền lực. Khi người dân chỉ chăm chăm chạy theo quyền lực tất đạo đức luân lý sẽ hao mòn:

“Thương ôi! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức, là luân lý cả.” (NQT, tr. 495; NVD, tr. 944)

Muốn có chủ nghĩa xã hội, nghĩa là muốn làm giảm nhẹ bất công, áp bức trong xã hội, thì “người có giúp cho người không”, “người mạnh giúp cho người yếu”. Nếu chỉ lấy “sức mạnh” làm tiêu chuẩn đạo đức thì ai ai cũng “phù thịnh”, có ai dại gì mà “phù suy”? Mặt khác, bất cứ quyền lực chính trị nào, dù là dân chủ nhất, cũng vẫn có xu hướng dựa trên sức mạnh. Do đó, để bênh vực người yếu, giúp đỡ người nghèo, các đoàn thể của quần chúng [12] chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với các cơ quan Nhà nước. Ta nên nghe lại lời phát biểu này của Phan Châu Trinh:

“Vì sinh kế, vì lợi quyền, người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi, chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ. Tôi nói như thế chắc anh em nghĩ cho tôi ở bên Tây lâu rồi nên tán tụng như thế chăng. Xin thưa rằng dân bên Âu châu họ cũng xấu chán, dân đức của họ cũng chưa đến nỗi [13] hoàn toàn, song dân nào họ có 30 hoặc 50 phần trăm biết giữ luân lý thì tưởng cũng đủ gọi họ là có rồi. Phong tục họ có chỗ xấu mặc lòng, nhưng trong nước họ còn có đảng thượng lưu, trung lưu biết lo đời, như mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại văn hào, đại giáo dục đứng lên hô hào, nào làm sách, nào soạn kịch [14] , nào diễn thuyết, cốt phá bỏ những tính hư tật xấu của người đời; rồi bọn thiếu niên xã hội, bọn thiếu niên dân chủ cũng tán thành ó ré theo để lo cứu chữa những đồi phong ác tục trong nước. Chẳng những họ lo ở nước họ mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.

Lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống là nói đến việc xã hội nhân quần! Họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?” (NQT, tr. 483; NVD, tr. 934)

Hơn thế nữa, những người có quyền lực chính trị và ngay cả chính phủ vẫn có thể là nguồn gốc của áp bức, bất công:

“Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc Chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ cho đến được công bình mới nghe. Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi chung vậy.” (NQT, tr. 493; NVD, tr. 943)

Do chỗ cá nhân không thể tự mình đấu tranh một cách lẻ loi, nhất là khi phải đối mặt với cường quyền, cá nhân phải liên kết với nhau thành đoàn thể. Đó là lý do Phan Châu Trinh nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của đoàn thể:

“Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.” (NQT, tr. 495; NVD, tr. 945)

Xét về mặt ngôn ngữ, chữ “xã hội” mà Phan Châu Trinh sử dụng có hai nghĩa. Trước hết, xã hội thế giới, là nhân loại, rộng lớn hơn từng quốc gia, từng dân tộc; do đó ông xếp theo thứ tự từ nhỏ hẹp đến rộng lớn: luân lý gia đình, luân lý quốc gia, luân lý xã hội. Mặt khác, xã hội là sự liên kết giữa người này đối với người kia, đồng nghĩa với cộng đồng, tương tự như khái niệm “xã hội dân sự” (société civile, còn được dịch là xã hội công dân). Đọc những gì ông trình bày về luân lý xã hội và chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy rõ ông nhận thức được ưu thế của “xã hội dân sự” (société civile) so với “Nhà nước” (Etat) trong việc bảo vệ công ích, trong việc tạo ra một xã hội công bằng cũng như trong việc xây dựng và hoàn thiện một nền đạo đức luân lý phù hợp với từng quốc gia, dân tộc. Điều đó có thể cũng xuất phát từ chính kinh nghiệm của bản thân ông khi quan sát hoạt động của các tổ chức quần chúng của cánh tả Pháp như Liên minh Nhân quyền (Ligue des droits de l’homme), Liên minh Giáo dục (Ligue française de l'enseignement), v.v.

Tóm lại, Phan Châu Trinh chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở của chủ nghĩa quốc gia - gắn liền với một chế độ dân chủ. Nhưng để xây dựng chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa xã hội, trước hết phải khôi phục lại nền đạo đức cũ của Nho giáo để làm nền tảng tinh thần, sức mạnh ban đầu của dân tộc. Xây dựng chế độ dân chủ và chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng đạo đức của Nho giáo; đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường dân chủ-xã hội mà Phan Châu Trinh đã vạch ra cho dân tộc ta từ giữa thập niên 20 của thế kỷ trước.

Ngày nay, nhìn lại lịch sử phát triển của các quốc gia Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ thời trung cổ, chúng ta thấy có hai hướng đi khác nhau. Một số nước phát triển theo con đường được mệnh danh là “tư bản chủ nghĩa” đã trở thành quốc gia giàu mạnh hàng đầu thế giới (Nhật Bản) hoặc trong vài thập niên qua vươn lên như những “con rồng châu Á” như: Hàn Quốc (Nam Triều Tiên), Đài Loan, Singapore… Những quốc gia này, tuy phát triển thành các nước văn minh, hiện đại, nhưng phong cách sống, phong tục tập quán, tâm lý cộng đồng… vẫn còn mang nặng tính chất Á Đông. Lịch sử của họ cho thấy mặc dù trải qua thăng trầm, nhưng di sản Nho giáo để lại vẫn còn phát huy tác dụng tích cực. Điều đó cho thấy cái nhìn của Phan Châu Trinh quả là “viễn kiến”. Ngoại trừ Singapore vẫn còn là một quốc gia độc đảng (tuy là độc đảng “sáng suốt”), tất cả các nước kia đều dần dần chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng.

Bên cạnh đó là các quốc gia chọn con đường Marx-Lenin, như: Trung Quốc (đại lục), Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) và Việt Nam. Ngay khi nắm quyền ở các nước này, những người cộng sản do mù quáng về ý thức hệ, đã ra sức đánh phá tan nát các giá trị đạo đức Nho giáo truyền thống bằng “cải cách ruộng đất”, bằng “cách mạng văn hoá” v.v. Nhưng những căn bệnh tệ hại nhất mà Phan Châu Trinh đã từng mong muốn xoá bỏ cho bằng được (tức là cái “độc chuyên chế” của chế độ quân chủ) thì vẫn còn đó, và được “thăng hoa” bằng một ý thức hệ mới đầy chữ nghĩa và “nguỵ biện” hơn, đồng thời được bảo vệ một cách chặt chẽ hơn bằng sức mạnh của hệ thống chuyên chính vô sản. Như vậy là cái cần giữ lại thì bị phá bỏ, còn cái cần xoá bỏ lại được bảo tồn và nâng cấp.

Nếu xem xét một cách tinh tế, chúng ta thấy trong các quốc gia cộng sản nói trên, “luân lý quốc gia” vẫn vắng bóng vì tình yêu Tổ quốc bị ngộ nhận thành tình yêu Đảng. Lòng “trung quân” biến thành lòng “trung với Đảng”, cho nên quốc gia vẫn không thể hình thành. Nhà nước mặc dù được trang điểm bằng các loại mỹ phẩm từ “dân chủ cộng hoà” cho đến “của dân, do dân, vì dân” rốt cuộc cũng vẫn không phải là Nhà nước của toàn dân mà chỉ là cái bóng của Đảng. “Tử viết” (Thầy nói, tức Khổng Tử nói) trở thành “Marx nói” hoặc “Lenin nói”. Ý thức hệ Nho giáo được thay thế bằng ý thức hệ Marx-Lenin. Đất nước được độc lập, nhưng nhân dân không được tự do; ách thống trị vẫn còn đó, chỉ có màu da của kẻ thống trị thay đổi. Điều đau khổ nhất là người dân bị áp bức, bóc lột mà không được phép đấu tranh, không được phép lên tiếng, bởi vì đấu tranh hay lên tiếng phê bình đều dễ dàng bị diễn giải thành “âm mưu của kẻ địch” hoặc bị kết tội “gián điệp”, “phản bội Tổ quốc” v.v.

Kể từ khi đổi mới theo hướng kinh tế thị trường, Đảng cộng sản Việt Nam nhìn sang các nước láng giềng và bất chợt nhận ra rằng họ vẫn dựa vào văn hoá truyền thống, vào đạo đức Nho giáo trong khi tiến hành công cuộc hiện đại hoá. Sách báo (vốn sẵn tinh thần “vọng ngoại”) bắt đầu ca ngợi các “con rồng” Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, và dĩ nhiên là không thể thiếu Nhật Bản. Nhưng ít có người Việt biết được rằng hơn 80 trước, một nhà cải cách hàng đầu của Việt Nam đã từng đề ra chủ trương canh tân, hiện đại hoá đất nước khởi đầu từ đạo đức Nho giáo. Nếu chủ trương của nhà cải cách đó được thực hiện, có lẽ ngày nay Việt Nam đã là nước đầu tiên ở châu Á đi theo con đường dân chủ -xã hội dựa trên nền tảng Nho giáo. Và có lẽ giới lãnh đạo và trí thức của nhiều nước Á Châu phải chạy sang học tập chúng ta thay vì chúng ta phải chạy sang học hỏi họ.

Có một câu hỏi vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời sự : tại sao nước người ta thì cứ tiến lên mà nước chúng ta lại cứ dậm chân tại chỗ, hoặc có chạy theo thì cũng lẹt đẹt chạy đằng sau người khác, không khi nào giữ được vị trí tiên phong?

Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời qua một số ý kiến mà Phan Châu Trinh đã từng nêu ra và ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.

So sánh giữa đạo đức luân lý của Á Đông và của Âu Tây, sau khi đã vạch ra những “cái dở” của luân lý Âu châu như “nam nữ tự do thái quá”, “giàu nghèo cách biệt thái quá”, “mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời Trung cổ thái quá”, “trọng trí dục hơn đức dục”, “chuộng ngoại giao hơn thành thật”, v.v. ông nhận xét:

“Bệnh họ tuy nhiều nhưng họ đã có thầy thuốc để chữa ngay, nghĩa là có những nhà triết học, những nhà giáo dục lo ra trừ tệ, canh cải sửa sang cho nền đạo đức luân lý mỗi ngày mỗi cao lớn, tốt đẹp thêm, chớ không phải như ở nước ta tốt khoe xấu che làm cho một ngày thêm một xấu.” (NQT, tr. 507; NVD, tr. 955-956)

Mặt khác, lý giải việc tại sao ở nước ta không có được những nhà “đạo đức” như những nhà tư tưởng tự do của Âu châu, ông giải đáp:

“Rút lại, những tôi tớ nhà vua đã tôn lên thì không ai dám đè xuống, mà những kẻ vua đã đè xuống thì không ai được tôn lên. Làm như thế thì trách nào những nhà đạo đức của nước ta không chóng mất sao được ? Người có tư tưởng tự do chẳng những ai cũng cho làm lạ, mà như vua thấy thế cũng sợ hại đến quyền chuyên chế của mình nên tự lập mưu đập chết [15] đi. Ở trong một dân tộc như thế thì những đứa nịnh hót không càng ngày càng nhiều làm sao được?“ (NQT, tr. 497; NVD, tr. 946-947)

Từ đó chúng ta có thể tạm rút ra kết luận: chỉ khi nào người Việt Nam (nhất là giới lãnh đạo và giới trí thức) từ bỏ cái thói quen “tốt khoe, xấu che”; chỉ khi nào nhà cầm quyền thôi đàn áp những người có tư tưởng tự do, còn giới trí thức thì quyết một lòng bảo vệ những người có tư tưởng tự do, chừng đó đất nước chúng ta mới có hy vọng mở mày mở mặt với thiên hạ.

Nhưng nếu những người có tư tưởng tự do vẫn tiếp tục bị đàn áp thì sao? Chúng ta có thể suy ra từ lời giải đáp của nhà chí sĩ họ Phan: một khi những người có tư tưởng tự do tiếp tục bị “đập chết” hay “đè xuống” thì đương nhiên “những đứa nịnh hót” sẽ ngày càng sinh sôi nẩy nở. Mà số phận của những triều đại làm sinh sôi nẩy nở những kẻ nịnh thần thì … chúng ta chỉ cần mở lại những trang lịch sử của các nước Á Đông, hoặc xem các phim truyện lịch sử của Trung Quốc đang chiếu nhan nhãn trên các kênh truyền hình của nước ta hẳn cũng có thể thấy được hồi kết cuộc.

Đà Lạt 8.3.2007
Mai Thái Lĩnh 

 
Tài liệu tham khảo chính

  • Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh - cuộc đời và tác phẩm, Nxb Văn học, 2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung);
  • TS. Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, In lần thứ hai, Nxb Văn hoá Thông tin, 2006;
  • Phan Châu Trinh – Toàn tập (I, II và III), Nxb Đà Nẵng, 2005;
  • Montesquieu, Œuvres complètes, Editions du Seuil, Paris 1964.
  • Montesquieu, De l'esprit des lois (1748), bản điện tử của giáo sư Jean-Marie Tremblay, Collection “Les classiques des sciences sociales”, Quebec, Canada, 2002.
  • http://www.uqac.uquebec.ca/zone30/Classiques_des_sciences_sociales/index.html
  • http://classiques.uqac.ca/classiques/index.php
Vì các tác phẩm của Phan Châu Trinh hiện nay vẫn chưa được các nhà nghiên cứu xử lý một cách dứt khoát về mặt văn bản học, trong khi chờ đợi một bộ Toàn tập được thực hiện một cách thật sự nghiêm túc và khoa học, tôi tạm thời sử dụng bản của Nguyễn Q. Thắng (sđd), có tham khảo bản của TS Nguyễn Văn Dương (sđd) để chỉnh lý.

© 2007 talawas

[1]“Tru di tam tộc” có thể là nguồn gốc của cái gọi là “lý lịch ba đời” dưới chế độ cộng sản.
[2]Bản NVD ghi “lổng lổng”.
[3]Montesquieu, De l’esprit des lois, IV, 5; Œuvres complètes, sđd, tr. 542.
[4]De l’esprit des lois, Avertissement de l‘auteur; Œuvres complètes, sđd, tr. 528.
[5]tức Nguyễn Hữu Chỉnh.
[6]Bản NVD ghi “…khiến vua Chiêu Thống phải chạy, đi đường bị dân bóc lột.”
[7]Bản NVD ghi “… chỉ lấy thế vị lớn nhỏ làm danh dự mà thôi,...”.
[8]Bản NQT ghi là “miền đất”, ở đây theo bản của NVD cho phù hợp với cả đoạn văn.
[9]Bản NQT không có chữ “sao" khiến cho câu văn tối nghĩa. Có lẽ do in sót?
[10]Bản NQT ghi “ấy là tự nhiên”. Ở đây, tôi theo bản của NVD.
[11]Bản NVD ghi “Chẳng những họ lo ở trong nước họ mà thôi,…”
[12]Tất nhiên phải là đoàn thể do quần chúng tự lập ra thật sự chứ không phải là Mặt trận và các đoàn thể quần chúng hiện nay ở nước ta, mà thực chất chỉ là những cánh tay nối dài của Đảng cộng sản.
[13]Bản NVD ghi “chưa đến cõi hoàn toàn”.
[14]Bản của NVD có thêm ba chữ “nào làm báo”.
[15]Bản NQT ghi là “đạp chết đi”. Ở đây theo bản của NVD.