Nhìn Lại Sử Việt - Chương 3: Nguồn gốc dân tộc Việt Nam: thời kỳ thần thoại


Thành Cổ Loa

CHƯƠNG 3. NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM: THỜI KỲ THẦN THOẠI

Lịch sử hình thành một dân tộc và cương vực của họ bao giờ cũng phức tạp và thường bị che phủ bởi một lớp màn làm bằng truyền thuyết và huyền thoại. Những truyền thuyết và huyền thoại này có thể chứa đựng rất nhiều sự thật, nhưng cái cốt lõi sự thật đó thường vẫn bị phủ lên nhiều lớp, ta có thể tạm gọi là, những trình tự lãng mạn mà những thế hệ sau đưa vào. Thành ra cuộc chiến đấu để dành những nguồn lợi của Hắc Hải trở thành câu chuyện về nàng Helen xinh đẹp và cuộc đấu tranh của những người Aryan cổ đại để chiếm lãnh tiểu lục địa Ấn Độ đã trở thành cuộc chiến đấu để đòi lại nàng Sita kiều diễm cho hoàng tử Rama.

Lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng vậy. Giai đoạn cho đến sự sụp đổ của triều đại An Dương Vương và nước Âu Lạc có thể nói là giai đoạn thần thoại của lịch sử dân tộc Việt Nam. Tuy rằng không có những tư liệu thành văn hoặc những văn bia chép lại, nhưng những truyền thuyết để lại về Lạc Long Quân với Ngư tinh, Hồ tinh; các chuyện Sơn tinh Thủy tinh, Trầu Cau, Phù Đổng Thiên Vương hoặc Chử Đồng Tử đã một phần nào diễn tả lại những thuở ban đầu dựng nước của dân tộc ta. Ngoài ra những chứng tích khảo cổ học tìm thấy ngay trên đất nước Việt Nam hiện nay cũng như một vài những ghi chép còn lại về thời đó của những quan lại Trung Hoa trong những ngày đầu Bắc Thuộc cũng là những bằng chứng hiển nhiên cho thấy một nền văn minh và một xã hội có tổ chức vững chắc làm cơ sở cho dân tộc Việt Nam về sau này. Và sau đây chúng ta hãy thử giở lại những trang sử cũ.

3.1 Kinh Dương vương và Lạc Long quân

Dân Việt chúng ta vẫn tự hào là "con Rồng, cháu Tiên" và có lẽ hầu như ai cũng biết đến truyền thuyết về nguồn gốc của dân tộc ta qua các câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu cơ. Những truyền thuyết này được ghi vào sử liệu của ta từ cuối đời Trần.

Theo tục truyền thì nước Việt Nam được dựng lên cách đây gần 5.000 năm. Sử thần Ngô Sỹ Liên đời nhà Lê, sau khi tham khảo các truyền thuyết và dã sử đã kể lại việc lập quốc của ta mà Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược tóm tắt lại như sau:

"Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra một người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn, phía Tây giáp Ba Thục, phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 TCN) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra con là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu cơ đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu cơ rằng:

"Ta là dòng dõi Long quân, ngươi là giòng dỏi thần tiên, ăn ở với nhau lâu thì không được nay được 100 người con thì ngươi đem 50 đứa lên núi còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải."

Tuy nhiên, theo Lĩnh Nam Chích Quái, một tuyển tập ghi chép lại những truyền thuyết và thần thoại dân gian được thu thập từ thế kỷ 13 và hoàn tất vào thế kỷ 15, thì truyền thuyết này đuợc kể lại hơi khác:

"Lạc Long Quân dậy cho dân cầy cấy ăn mặc; trong nước từ ấy mới có thứ tự quân thần, tôn ti, mới có luân thường giữa cha con, chồng vợ. Có lúc Long Quân trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui. Hễ dân có việc cứ gọi Lạc Long Quân rằng:" Bố ơi sao không về để cứu chúng con (người Việt gọi "phụ" là cha hoặc "bố", gọi quân là vua chính là như vậy), Long Quân liền về ngay. Sự oai linh cảm ứng của Long Quân người ta không thể nào lường được.

Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Nhân khi phương Bắc vô sự, nhớ tới chuyện ông mình là Đế Minh tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn bảo bề tôi thân cận là Xuy Vưu thay mình giữ nước rồi đi tuần du nước Xích Quỷ ở phương Nam. Đến nơi thấy Lạc Long Quân đã về thủy phủ, trong nước vô chủ, bèn để ái nữ là Âu Cơ và những kẻ theo hầu hạ ở lại nơi hành tại, còn mình thì đi dạo chơi trong thiên hạ, xem khắp các nơi danh thắng. Thấy những hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm, dị thú, tê tượng đồi mồi bạc vàng châu ngọc, tiêu, quế, nhũ hương, trầm đàn, các vị cùng sơn hào hải vị không thiếu một thứ nào. Bốn mùa khí hậu lại không lạnh không nóng, Đế Lai lòng yêu thích quên cả chuyện về. Nhân dân nước Nam khổ vì bị phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân trở về bèn cùng nhau cất tiếng gọi:"Bố ở nơi nào, hãy mau về cứu chúng con" Long Quân thoắt nhiên trở về, thấy Âu Cơ đang một mình, dung mạo tuyệt mỹ. Long Quân bèn hóa ra một chàng trai sinh đẹp tả hữu trước sau có đông đảo kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến tận nơi hành tại. Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng siêu siêu. Long Quân bèn đón Âu Cơ về ở động Long Trang. Đến khi Đế Lai trở về không thấy Âu Cơ bèn sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần, biến hóa ra trăm hình nghìn vẻ, nào yêu tinh quỷ núi, nào rồng rắn hổ voi khiến cho kẻ đi tìm sợ hãi không dám sục sạo. Đế Lai đành trở về phương Bắc...

Long Quân và Âu Cơ sống với nhau chừng một năm thì sinh ra một cái bọc. Cho là điềm không lành bèn vứt ra ngoài đồng. Qua bảy ngày, cái bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng sinh một người con trai. Long Quân bèn đón về nuôi. Không cần bú mớm, các con tự lớn, người nào cũng trí dũng kiêm toàn, ai ai trông thấy cũng đều kính phục. Long Quân ở mãi nơi thủy phủ, làm cho mẹ con Âu Cơ sống lẻ loi, muốn về đất Bắc. Khi đi tới biên giới, Hoàng Đế nghe tin lấy làm lo sợ, bèn chia quân ra ngăn giữ ngoài biên ải. Mẹ con không về Bắc được bèn đêm ngày gọi Long Quân rằng "Bố ở nơi nao, làm cho mẹ con phải buồn đau" Long Quân bỗng nhiên tới, cùng gặp nhau ở Tương Dã. Âu Cơ vừa khóc vừa nói rằng:"Thiếp nguyên người đất Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau, sinh được một trăm đứa con trai, không biết dựa vào đâu nuôi nấng, vậy xin theo chàng; mong chàng đừng ruồng bỏ, làm cho mẹ con thiếp hóa ra những kẻ không chồng không cha chỉ riêng mình đau khổ thôi". Long Quân nói:"Ta là giống rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn không đoàn tụ được, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng giòng giống tương khắc như nước với lửa, khó bề ở với nhau lâu được. Nay phải chia ly. Ta sẽ đem năm mươi người con về thủy phủ để cai trị các nơi còn năm mươi đứa sẽ theo nàng ở trên đất, chia nước ra mà cai trị. Những lúc lên non, xuống nước có việc cùng gắn bó đừng bỏ rơi nhau." Trăm người con trai nghe theo, rồi cùng nhau từ biệt.

Căn cứ vào những quy luật về tiến hoá của thần thoại và truyền thuyết, chúng ta có thể thấy ở đây một số điểm đáng chú ý. Gạt bỏ vai trò của Kinh Dương Vương mà trong thần thoại chỉ xuất hiện để cho tổ tiên chúng ta một quá khứ cũng vinh quang và lâu dài như người Hán, huyền thoại về Lạc Long Quân cho thấy nguyên thủy dân ta có nguồn gốc từ biển lên. Bộ tộc này, ta cứ tạm đặt tên là Lạc, đã từ đại dương đi đến và trong công trình khai phá vùng đất nay là Việt Nam đã gặp những bộ tộc khác từ trên núi đi xuống. Hai bên đã kết hợp vói nhau trong một cuộc hội hợp có lẽ nhiều tính cách hòa bình hơn là chiến tranh. Thần thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ đã diễn tả lại một phần nào sự hội hợp giữa hai tộc dân từ núi và từ biển tới đó. Nhưng những người dân Lạc đó từ đâu đến? Và đến từ lúc nào? Aurousseau, một nhà nghiên cứu người Pháp của trường Viễn Ðông Bác Cổ, là người đầu tiên đưa ra giả thuyết dân tộc ta có nguồn gốc từ những dân tộc mà người Trung Quốc gọi là Bách Việt có quan hệ với nước Việt của Câu Tiễn thời Chiến Quốc. Theo ông, dân Việt chính là con cháu của những người Việt này, di cư xuống phía Nam sau khi nước Việt bị nước Sở diệt vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Đào Duy Anh là một trong những người đồng ý với giả thuyết của Aurousseau. Ông đã mô tả cuộc di cư của những người Việt này một cách lãng mạn như sau:

"Ngày xưa có một bộ lạc ở vùng biển Phúc Kiến, Trung Quốc. Hàng năm cứ theo gió mùa họ lại nhân gió bấc mà vượt biển đến các miền duyên hải ở phương Nam, đại khái là vùng Hải Nam và vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã của Việt Nam. Đến mùa gió nồm họ lại vượt trở về nơi căn cứ.
Trong những cuộc vượt biển hàng năm đó, họ tự ví mình như con chim lạc, một loài chim nước ở vùng Giang Nam mà đến mùa đông họ thấy cũng rời vùng Giang Nam mà bay về nam đồng thời với việc xuất dương của họ. Đến mùa gió nồm họ lại cũng thấy những con chim lạc này cất cánh quay trở về vùng Giang Nam đồng thời với họ. Vì thế mà dần dần trong tâm lý họ phát sinh một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa họ và loài chim đó. Rồi ý niệm đó chuyển thành quan niệm tô-tem khiến họ nhận con chim lạc kia làm vật tổ. Cái tên vật tổ đó trở thành tên của bộ lạc và bộ tộc đó trở thành bộ tộc Lạc.

Sau nhiều lần vượt biển như vậy, một số người Lạc đã ở lại vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã làm nghề chài lưới ở bờ sông bờ biển và nghề trồng trọt ở những vùng đất cao. Dần dà những nhóm dân Lạc đó một ngày một đông hơn và họ chia thành những bộ lạc. Sau này khi nước Việt đời Xuân Thu bị nước Sở diệt, những tù trưởng dân Lạc ở xứ Mân (Phúc Kiến) kéo cả bộ lạc di cư về vùng đồng bằng miền Bắc Việt Nam mà trước đó họ đã biết rằng rất phì nhiêu. Đến đây họ còn giữ tên thị tộc cũ là Lạc. Và chính bằng tên ấy, Lạc, mà các nhà sử gia Trung Hoa gọi họ."

Nhưng liệu điều đó có đúng không? Một số những nhà nghiên cứu khác đã không đồng ý và chỉ ra một số nhược điểm lớn của giả thuyết này. Ðặc biệt thuyết này đã không để ý đến những khó khăn của một cuộc hành trình dài đến mấy ngàn cây số xuyên qua phần đất của nhiều dân tộc khác nhau cũng như là phản ứng của những dân bản xứ trước một cuộc di cư lớn như vậy. Để xác định, chúng ta còn phải nhìn lại các bằng chứng khác, qua thư tịch lịch sử, khảo cổ và ngôn ngữ.

Những bằng chứng sử liệu

Những tư liệu thành văn cổ nhất còn lưu truyền lại đến nay là những tác phẩm của những sử gia và quan lại Trung Quốc viết sau khi nước ta trở thành một bộ phận của đế quốc người Hán. Những bộ sách này tuy hầu hết nói đến tình hình nước ta sau khi nội thuộc, nhưng một số cũng nhắc đến những sự kiện vào thời gian mà họ gọi là "đất Giao Chỉ xưa khi chưa chia thành quận huyện".

Có lẽ bộ sách của người Hán đầu tiên có nhắc đến nước ta là bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên viết vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Trong Nam Việt Úy Đà truyện, Tư Mã Thiên đã nhắc đến Âu Lạc và Tây Âu Lạc. Sang đến thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên, Ban Cố viết Hán Thư mới lần đầu tiên nhắc đến người Lạc Việt trong Giả Quyên truyện. Sau đó là bộ Hậu Hán Thư của Phạm Việp viết vào thời Lưu Tống. Trong cuốn này Phạm Việp có nhắc đến Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh. Tuy nhiên phải đến thế kỷ thứ 4 và thứ 5 sau Công Nguyên, các thư tịch Trung Hoa mới nói đến giai đoạn Hùng Vương. Hùng Vương đầu tiên được ghi chép trong thư tịch Trung Quốc trong các cuốn Giao Châu Ngoại Vực Ký và Quảng Châu Ký nay đã thất truyền.  Chỉ còn lại một số đoạn trích dẫn trong các sách khác như Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên hoặc Cựu Đường Thư, một bộ chính sử đời Đường. Riêng về tên nước Văn Lang thì phải đợi đến đời Đường ở thế kỷ thứ 8 mới được nhắc đến, khi chỉ định quận huyện ở Giao Châu như sách Thông Điển, một cuốn bách khoa toàn thư thời cổ, do Đỗ Hựu, ông nội của nhà thơ Đỗ Phủ, viết "Phong Châu là nước Văn Lang xưa".

Nhửng đoạn chép trong những sách này thường rất ngắn ngủi. Thủy Kinh Chú dẫn Giao châu Ngoại Vực ký, chép:

"Đời xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cầy bừa trên ruộng đó để sinh sống. Lạc vương và Lạc hầu cai trị những quận huyện. Ở mỗi huyện có Lạc Tướng"

Còn Thái Bình Quảng Ký và Thái Bình Hoàn Vũ Ký, hai cuốn sách thu góp những tác phẩm viết từ thời Ðường trở về trước, được thu thập vào thời Tống (khoảng thế kỷ thứ 10) thì chép lại Nam Việt Chí như sau:

"Đất Giao Chỉ rất phì nhiêu, nhiều dân di cư đến. Họ là những người đầu tiên khai khẩn đất. Đất đen và bốc hơi mạnh. Những cách đồng đó được gọi là Hùng điền và dân là Hùng dân. Có một ông chúa gọi là Hùng vương. Hùng vương có những viên chức giúp việc gọi là Hùng hầu. Lãnh thổ đất Hùng thì chia ra cho các Hùng tướng"

Tất cả những tài liệu thư tịch trên như vậy đều chỉ nói đến giai đoạn sau, khi nước ta đã thành hình và những người dân Lạc nguyên thủy từ đại dương đến đã hội nhập hoặc đã khai phá đất nước để dựng nên một nền văn minh mới tại châu thổ sông Hồng.

Thư tịch lịch sử nước ta phải đến đời nhà Trần, với lòng tự hào dân tộc bùng nổ mạnh mẽ sau những chiến thắng đánh bại quân Mông Cổ, các nhà nho và sử gia nước ta mới thu thập lại những truyện cổ và những truyền thuyết nơi dân gian nói lên "cương vực lâu đời của đất nước" để chứng tỏ quốc thống bắt đầu từ đấy.

Như đã nhắc đến ở trên, hai bộ sách đầu tiên của ta nhắc đến thời lập quốc là các bộ Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái. Việt Ðiện U Linh Tập được Lý Tế Xuyên viết vào khoảng năm 1329. Tác giả trong bài tựa giới thiệu mình giữ chức "thư hỏa chính chưởng" tức là một chức quan giữ việc tế tự và mục tiêu của cuốn sách này cốt để làm chính danh những vị thần nào đáng được cúng tế. Cuốn sách bao gồm 27 truyện chia ra làm ba loại "lịch đại đế vương", "nhân thần" và "hạo khí anh linh" trong đó, đặc biệt là 17 truyện trong hai mục đầu nói tới những nhân vật lịch sử mà các hành vi của họ tác động mạnh đủ đến quần chúng để người ta phải thờ phụng như Hai Bà Trưng, Phùng Hưng, vân vân. Khi viết tập này, Lý Tế Xuyên đã dùng nhiều tư liệu như Báo Cực truyện hoặc Giao Châu Ký của Triệu Xương, một viên quan đô hộ đời Ðường, mà nay đã thất truyền thành ra đây là một nguồn tư liệu quý giá cho lãnh vực nghiên cứu cổ sử của nước ta. Tuy nhiên, riêng về thời Hùng vương, Việt Ðiện U Linh tập không nhắc nhở gì đến nhiều. Phải đến Lĩnh Nam Chích Quái mới là bộ sách viết nhiều nhất đến thời đại này. Lĩnh Nam Chích Quái là một bộ sưu tập các truyện dân gian do Trần Thế Pháp thu thập và Vũ Quỳnh xuất bản vào khoảng năm 1492. Sau đó bộ sách này đã được nhiều người khác bổ sung và thêm thắt trong đó có Kiều Phú. Tuy nhiên có thể bộ sách này đã có từ trước khi Vũ Quỳnh xuất bản vì khi Ngô Sỹ Liên viết bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư vào năm 1479 thì cũng đã biết và sử dụng một số sự tích trong sách này. Trong Lĩnh Nam Chích quái các tác giả đã sưu tầm những truyền thuyết và thần tích từ trong dân gian để tìm cách chứng tỏ rằng nước Việt ta cũng có một quá trình văn minh lâu dài và đáng tự hào không kém gì đế quốc phương Bắc.

Vũ Quỳnh trong bài tựa khi san định lại bộ Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp đã viết:

"Núi non kỳ lạ, đất đai linh thiêng, nhân dân anh hào, chuyện tích thần kỳ, thường thường vẫn có.. Xem chuyện họ Hồng Bàng thì hiểu rõ được lai nguyên khai sáng ra nước Hoàng Việt"

Mặc dầu vậy, các thư tịch của ta cũng như của Trung Quốc đã không giúp gì được bao nhiêu trong việc tìm hiểu nguồn gốc và xuất xứ của dân tộc Việt Nam. Muốn xác định điều này, chúng ta phải dựa vào những bằng chứng của các ngành khảo cổ và cổ ngôn ngữ học.

Những bằng chứng khảo cổ

Vào khoảng những năm 1930, trong khi khai quật một số mộ cổ từ thời Đông Hán để lại tại khu vực Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, các nhà khảo cổ, trong đó có Olov Janse bỗng nhiên tìm thấy những hiện vật bằng đồng không thuộc đời Hán chôn theo tại một số những mộ này. Những hiện vật bằng đồng này không mang dấu tích của văn hóa Hán tộc. Các cuộc khai quật khác tại vùng này và một số vùng khác đã phát hiện ra một nền văn hóa hoàn toàn mới mà niên đại được ước tính là kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên cho đến khoảng thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên. Dựa vào tên của nơi đầu tiên tìm ra những di vật này, người ta đặt tên cho nền văn hóa đó là văn hóa Đông Sơn.

Trong khoảng trên 8 thế kỷ đó, những người chủ của nền văn hóa Đông Sơn này đã tạo dựng được một nền văn minh chói sáng dựa trên kỹ thuật đúc đồng. Những di vật còn lại của thời đó, nhất là những trống đồng đã cho thấy họ có một nền kinh tế văn hóa phát triển, có một tôn giáo riêng thờ thần mặt trời, và có những ngày hội tết đặc biệt là hội nước tương tự như những ngày hội nước tại các nước khác ở Đông Nam Á hiện nay như Lào hoặc Thái Lan. Sự khác biệt giữa những đồ minh khí chôn theo trong mộ cũng cho thấy xã hội thời Đông Sơn cũng đã phân hóa thành giai cấp với những ngôi mộ có rất nhiều đồ minh khí chôn theo trong khi những ngôi mộ khác hầu như không có gì. Điều này có thể cho thấy rằng một nhà nước sơ khai đã hình thành với vua quan và dân chúng. Một điểm đặc trưng khác là những mô-típ trên các trống đồng còn lại này cho thấy chủ nhân của những trống đồng này là một nền văn hóa xuất phát từ biển và sống trên sông nước, một điều trùng hợp với những gì ta vừa suy diễn về bộ tộc Lạc của Lạc Long Quân.

Các di vật của nền văn hóa này được tìm thấy tại nhiều nơi ở Đông Nam Á và tại vùng Vân Nam thuộc Trung Quốc. Tuy nhiên, những di tích chính của nền văn hóa này tập trung tại miền Bắc nước ta, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã, đặc biệt là tại vùng Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ vốn được coi là cái nôi của vương quốc các vua Hùng. Sự trùng lặp giữa việc phân bố các di chỉ của văn hóa Đông Sơn với vùng mà hầu hết hiện nay người ta công nhận là cương vực của nước Văn Lang thời xưa đã khiến cho các học giả đồng nhất giai đoạn văn hóa Đông Sơn với thời đại Hùng vương trong lịch sử nước ta. Và giai đoạn phát triển của nền văn hóa Đông Sơn cũng là giai đoạn then chốt hình thành dân tộc Việt Nam.

Có hai vấn đề đặt ra trong việc nghiên cứu nền văn hóa Đông Sơn để có thể xác định rõ nguồn gốc của dân tộc Việt. Thứ nhất, văn hóa Đông Sơn được du nhập từ bên ngoài vào hay là kế thừa các tiến hóa có sẵn từ thời đồ đá? Và thứ hai, chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn này thuộc tộc người nào.
Những nhà khảo cổ đầu tiên nghiên cứu về nền văn hóa Đông Sơn như Janse, vì không thể nào nghĩ rằng một nền văn hóa cao như vậy có thể có xuất sứ nội địa nên họ cố gắng tìm một nguồn gốc từ bên ngoài vào. Dựa trên hình dạng của một số những rìu đồng còn lại họ cho rằng văn hóa Đông Sơn thoát thai từ một nền văn minh cổ đại tại Đông Âu và được truyền từ vùng Trung Cận Đông sang Việt Nam. Nhưng những luận chứng này sau đó hầu như đã bị mọi người bỏ qua vì không thể tìm ra được một giây liên lạc nào nối liền Việt Nam với Đông Âu cả.

Một số quan niệm sau đó cho rằng văn hóa Đông Sơn được thoát thai từ nền văn minh sông Hoài của người Hán. Những học giả chủ trương quan điểm này cho rằng nghệ thuật đúc đồng tại Á châu phát sinh từ bên Trung quốc và sau đó được truyền xuống miền Nam.

Đó là một lý do khiến Đào Duy Anh và Aurousseau cho rằng tổ tiên người Việt ta là gốc từ các vùng Chiết Giang, Phúc Kiến địa phận của nước Việt thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Vùng Ngô Việt này, theo sử Trung Quốc, từ xưa đã nổi tiếng về nghề đúc đồng với những thanh bảo kiếm như Long Tuyền, Thái A còn được truyền tụng trong lịch sử.

Tuy nhiên, những khám phá về khảo cổ gần đây, đặc biệt là những khai quật tại Thái Lan cho thấy một bức tranh khác hẳn. Clark Neher, trong bài viết "The Bronze Drum Tradition" đăng trên tạp chí Asian Studies năm 1975 cho biết:

"Trái với những điều mà các học giả Trung Quốc vẫn thường tự nhận, việc đúc đồng đã được biết trước tại Đông Nam Á, và truyền lại sang Trung quốc về sau này".

Mặc dầu kết luận của Neher vẫn còn đang bị tranh cãi, nhưng những bằng chứng khác cho thấy, nền văn hóa đồ đồng tại Đông Sơn đã phát triển độc lập với Trung Quốc và là một kế thừa của một nền văn hóa xưa hơn tại chỗ thuộc về thời kỳ đồ đá mới mà các nhà khảo cổ gọi là văn hóa Phùng Nguyên. Phùng Nguyên là một nền văn hóa thuộc vào thời kỳ đá mới (neolithic) mà những di chỉ được tìm thấy trên hầu hết vùng trung du Bắc Việt. Những thử nghiệm niên đại dùng Carbon 14 cho thấy nền văn hóa này được xuất hiện từ khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên với đặc trưng là những đồ gốm cứng có hoa văn thừng. Những phát hiện khảo cổ tại miền Bắc Việt Nam cho thấy là vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai, văn hóa Phùng Nguyên đã phát hiện ra cách làm đồ đồng và chuyển thành một nền văn hóa mới được những nhà khảo cổ miền Bắc đặt tên là Ðồng Ðậu. Ðồng Ðậu đạt mức cao điểm vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Ðó chính là thời điểm mà Janse gọi là văn hóa Ðông Sơn.

3.2 Lạc hay Lạc Việt

Nhưng những người chủ của nền văn hóa Đông Sơn này là ai? Họ có phải là bộ tộc Lạc Việt của nước Việt thời Xuân Thu di dân theo gót con chim Lạc hay không? Hay người Lạc, tiền thân của người Việt chúng ta là một tộc người khác hẳn?

Muốn tìm hiểu vấn đề này, ta phải trở lại lịch sử Trung Quốc vào thời xưa. Văn minh Hán tộc vốn xuất phát từ vùng hiện nay là Hoa Bắc, tập trung chung quanh các con sông Hà, Hoài. Tại vùng Hoa Trung, lưu vực sông Dương Tử hiện nay, theo các sử liệu xưa thì là nơi mà văn hóa Hoa Hạ còn chưa phổ biến, nhưng những dân tộc ở đây cũng nói một thứ tiếng cùng họ với tiếng Hoa. Có ba nước mà trong thời từ sau khi nhà Chu thiên về phía Đông đã nổi bật lên ở vùng này. Đó là các nước Sở, Việt và Thục. Tuy nhiên biên giới của ba nước này đều cách biệt với vùng Hoa Nam qua một loạt những ngọn núi cao ngăn cách. Những ngọn núi này, có tên là Ngũ Lĩnh là biên giới giữa các tộc người thuộc dòng Hán tộc và những tộc người khác không phải là Hán. Nhưng ngay vùng Lĩnh Nam này của Trung quốc cũng còn cách biệt với đồng bằng sông Hồng của Việt Nam bởi một loạt những núi cao hiểm hóc.

Những bằng chứng sử liệu

Sử liệu Trung Quốc không nhắc nhở gì đến miền Lĩnh Nam (vùng phía nam Ngũ Lĩnh này) trước thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Nhưng đến thế kỷ này một số biến động lớn đã xảy ra. Năm 333 TCN, Sở diệt Việt. Mười tám năm sau đó, Tần diệt Thục. Những quý tộc của hai nước Việt, Thục chạy về phía nam. Ta không biết gì về những vương quốc mà các dòng quý tộc nước Thục thành lập, nhưng các quý tộc của nước Việt đã đi xuống vùng Lĩnh Nam và lập nên những vương quốc mới mà sau này được sử Trung quốc gộp lại chung dưới tên là Bách Việt. Bốn trong số những vương quốc này đã để lại dấu ấn trong lịch sử. Nam Việt, vương quốc lớn nhất có cương vực nằm tại cửa sông Tây giang tại khu vực thành phố Quảng Châu ngày nay; Mân Việt có trị sở nằm ở Phúc Kiến; Đông Âu ở Chiết Giang và Tây Âu nằm tại vùng Quế Lâm thuộc miền Bắc Quảng Tây ngày nay.

Những sự kiện này xảy ra tương ứng với thời gian nền văn hóa Đông Sơn của ta đang đi vào giai đoạn cực thịnh. Nếu có một cuộc di cư lớn của những người Việt từ phương Bắc xuống thì chắc hẳn họ đã để lại những dấu ấn trong những di vật của nền văn hóa Đông Sơn này. Nhưng cho đến nay những dấu hiệu đó đã không thấy xuất hiện. Điều đáng chú ý là Đại Việt Sử Lược, cuốn sử còn lại sớm nhất của Việt Nam, viết vào khoảng thế kỷ 13, có chép đến chuyện Việt Vương Câu Tiễn (505 TCN) sau khi diệt Ngô, đã sai sứ sang dụ Hùng Vương thần phục nhưng đã bị Hùng Vương cự tuyệt. Một điều chứng tỏ rằng dân Lạc của ta và những tộc mà người Hoa gọi là Bách Việt không có một liên hệ trực tiếp.

Nhưng nếu dân Việt không đến từ vùng Hoa Nam thì họ từ đâu đến? Những khai quật khảo cổ trong suốt những năm gần đây cho thấy những cư dân tại vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã đã tồn tại liên tục trong suốt thời kỳ từ hậu kỳ thời đá cũ cho đến thời kỳ đồng thau và sắt tức là từ khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến nay. Phân tích những di hài hóa thạch tìm được trong các di chỉ từ thời đá cũ trở đi, các nhà cổ nhân chủng học đã xác định những cư dân này bao gồm nhiều thành phần chủng tộc khác nhau trong đó quan trọng nhất là những thành phần thuộc tộc Nam Đảo (Austronesian) và Nam Á (Austroasiatics). Tuy rằng số lượng di hài tìm được không đủ để đưa ra những kết luận có tính khẳng định, nhưng một trong những kết quả thử nghiệm cho thấy càng về sau, nhất là kể từ khi thời đại đồng thau bắt đầu tỷ lệ những di hài thuộc chủng tộc Nam Á đã gia tăng so với những di hài thuộc chủng tộc Nam Đảo.
Những dự kiện trên cho phép ta phác ra một cách rất đại cương tiến trình hình thành của cư dân trên vùng lãnh thổ sông Hồng mà sau này trở thành tổ tiên của chúng ta.

Những cư dân đầu tiên tại miền Bắc nước ta là những người da đen thuộc sắc dân Australoid và Melanesian có quan hệ mật thiết với những người thổ dân Aborigin tại Úc châu. Những người này đến vùng Đông Nam Á vào khoảng từ những năm 50.000 cho đến 25.000 trước Công Nguyên. Tàn dư của những giống người này nay vẫn còn tồn tại tại Malaysia và Philippines. Nhưng bắt đầu từ khoảng cuối thiên niên kỷ thứ tư sang đến thiên niên kỷ thứ ba, tại vùng trung du và đồng bằng Bắc Việt xuất hiện một tộc người mới, những người này gốc Nam Đảo (Austronesian) và mang lại những thay đổi đưa nền văn hóa tại đây từ thời đại đồ đá cũ sang thời đại đá giữa, với các dụng cụ được gọt đẽo một cách khéo léo hơn. Có nhiều lý do cho thấy rằng việc di dân này đã được thực hiện một cách tương đối hòa bình. Tại nhiều di chỉ khai quật tỷ dụ như tại Hòa Bình và Bắc Sơn, người ta đã tìm thấy những bộ xương của người da đen và của người Nam Đảo chôn cạnh nhau. Theo các nhà nghiên cứu, những người mới tới này đi theo đường bộ và từ miền Hoa Nam xuống và tới vùng đồng bằng Bắc Việt muộn nhất là vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 2 truớc Công Nguyên. Ít lâu sau đó, trên đất nước Việt Nam lại xuất hiện một chủng tộc người mới, người Nam Á (Austroasiatics). Đây là một phần của một đợt di cư mới của người Nam Á trên toàn thể vùng Đông Nam Á. Tại những nơi khác ở Đông Nam Á, cuộc di cư của những người Nam Á này đã đẩy những tộc người Nam Đảo ra các đảo ngoài khơi lục địa châu Á hình thành những tộc người Mã Lai - Nam Ðảo tại các quần đảo Philippines, Indonesia đến tận đảo Madagascar ở Phi châu. Tuy nhiên tại Việt Nam, có vẻ sự hợp nhất giữa hai tộc người này đã diễn ra một cách hòa bình hơn và thần thoại về cuộc hôn nhân giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hình tượng hóa sự hợp nhất của hai sắc tộc này thành một sắc tộc độc nhất, sắc tộc Lạc, hay tiền Việt (proto-Viet).

Những bằng chứng về ngôn ngữ và phong tục

Tiếng Việt Nam hiện tại được sắp vào tộc họ các ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatics) cùng chung với Môn Khmer và Mường, tuy rằng có pha trộn thêm rất nhiều từ tố khác lấy từ các họ ngôn ngữ Nam Đảo và Thái chưa kể những vay mượn từ Hoa Ngữ về sau này. Kết quả nghiên cứu về ngữ học như vậy đã xác nhận những phát hiện của cổ nhân chủng học cho rằng dân Lạc, tổ tiên của người Việt hiện nay, là những người Nam Á cổ xưa lai tạp với những người thuộc tộc Nam Đảo ở đồng bằng sông Hồng trong những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên.

Nhưng những người Nam Á tổ tiên của chúng ta từ đâu đến? Những nghiên cứu về ngữ học cho thấy, hiện nay tại Đông Nam Á lục địa có tất cả 5 họ ngôn ngữ: Nam Đảo (Indonesian), Nam Á (Môn Khmer và Việt), Miến - Tạng, Thái và Miêu Dao. Trong số các họ này, họ tiếng Thái đã được xác nhận là do những lớp người di cư từ vùng Tây Nam Trung quốc xuống trong khoảng các thế kỷ thứ 12 và 13 sau Công Nguyên còn họ Miêu - Dao thì bị giới hạn ở một vùng biên thùy phía Bắc của khu vực Ðông Nam Á mà thôi. Cả hai thứ tiếng này như vậy không nằm trong tầm quan tâm của chúng ta. Phân tích việc phân bố các ngôn ngữ như vậy, ta thấy các thứ tiếng Indonesian bị giới hạn trong một khu vực từ Phan Rang lên đến vùng Tây Nguyên và tràn sang một số tỉnh miền Bắc của Cao Miên mà thôi. Nếu loại bỏ sự hiện diện của tiếng Thái mà hiện nay phân đôi vùng nói các ngôn ngữ Nam Á, ta thấy rằng ít nhất là từ giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên những dân tộc nói tiếng Nam Á đã ở suốt liền một giải từ vịnh Bengal cho đến vịnh Bắc Việt qua sang cả vùng Assam của Ấn Độ. Những tài liệu nghiên cứu cũng cho thấy, tiếng Việt đã tách rời ra khỏi gốc chung của tiếng Nam Á khá sớm chứng tỏ rằng người cổ Việt đã ra khỏi quê hương chung của tổ tiên những người Nam Á trước các tộc khác.

Những công trình nghiên cứu để tìm một quê hương gốc cho chủng người Nam Á đến nay vẫn còn thất bại. Một số thuyết cho rằng tổ tiên của người Indonesian cũng như người Nam Á đều phát xuất từ vùng Nam Hoa. Những người này đã từ từ rời bỏ vùng này và di cư xuống miền Nam trong những thiên niên kỷ của đầu thời kỳ đá mới. Theo giả thuyết này, những người Indonesian là tộc người đầu tiên rời bỏ vùng này và lan truyền sang đến Đài Loan và các vùng hải đảo. Những người Nam Á rời vùng này sau, và theo đường bộ lan truyền sang Đông Nam Á lục địa và vùng đông Ấn Độ. Một thuyết khác khẳng định rằng quê hương của người Nam Á là chính tại Đông Nam Á. Theo thuyết này thì những người Nam Á được hình thành qua sự chuyển biến của những người thuộc chủng Indonesian mà ra. Diễn biến hình thành chủng tộc Nam Á này được diễn ra tại một vùng rộng lớn, bao gồm không những cả vùng Đông Nam Á mà cả đến miền Nam Trung Quốc nữa.

Nhưng cũng có thể có một lý giải khác. Vào khoảng những năm cuối của thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, tại tiểu lục địa Ấn Độ đã diễn ra một biến đổi rất lớn, đó là cuộc di cư của những người Aryan từ vùng Trung Á đi vào mà hiện còn được ghi lại trong những sử thi Mahabharata và Ramayana. Cuộc tiến công của những người Aryan này đã đẩy những tộc người sống tại Ấn trước đó phải hoặc lên những vùng núi cao, hoặc vượt biển đi sang những vùng đất mới. Sự kiện ra đi của những người này diễn ra muộn nhất là vào khoảng những năm 1500 TCN và trùng hợp vào việc xuất hiện tộc người Nam Á tại khu vực Đông Nam Á. Nếu giả thuyết này mà đúng thì ta có một chuyện khá lý thú là chính vì những chiến thắng của Rama mà ta có Lạc Long Quân.

Những nghiên cứu về phong tục cho thấy người Việt xưa có một loạt những phong tục tập quán và tín ngưỡng giống như những dân tộc khác ở Đông Nam Á như về tín ngưỡng, tục thờ vật tổ (rồng tiên) (totemism), phiếm thần (animism); về phong tục như nhuộm răng đen, ăn trầu, tục xâm mình. Ngay cả những nghi thức về hôn nhân, tang tế cũng như những ngày lễ hội (hội nước). Điều này cho thấy dân tộc Việt Nam hồi đó nằm chung trong một quần thể dân tộc Đông Nam Á. Ngay cả huyền thoại Lạc Long Quân và Âu cơ trong truyền thuyết dựng nước của Việt Nam cũng có những nét tương tự như truyền thuyết dựng nước của Phù Nam với chàng Kaundinya từ biển đến và lấy nàng công chúa Liễu Diệp để dựng lên đất nước Phù Nam.

3.3 Hùng vương và nước Văn Lang

Theo truyền thuyết, sau Lạc Long Quân là thời đại Hùng Vương. Lĩnh Nam Chích Quái chép sau khi từ biệt Lạc Long Quân “Âu Cơ và 50 người con lên đất Phong châu, suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam hải, tây tới Ba Thục, bắc tới hồ Động Đình, nam tới nước Hồ Tôn. Hùng Vương chia nước làm 15 bộ.". Nhưng như vậy thì Hùng Vương bắt đầu lên làm vua vào lúc nào? Và cương vực của đất nước mà Hùng Vương thành lập mở rộng đến đâu? Điều chắc chắn là triều đại của Hùng Vương kéo dài cho đến khi đất Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với nền văn minh của Trung Quốc và bị kéo vào quỹ đạo của Trung quốc vì những tài liệu cổ nhất của Trung Quốc đã nhắc tới “đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cầy bừa trên ruộng đó để sinh sống. Lạc vương và Lạc hầu cai trị những quận huyện. Ở mỗi huyện có Lạc tướng”

Nhưng thời đại Hùng Vương bắt đầu từ lúc nào? Lĩnh Nam Chích Quái cũng như các sách sử khác không nói rõ Hùng Vương lên làm vua từ bao giờ, nhưng Đại Việt sử lược, một cuốn sử viết từ thời nhà Trần lại viết khá rõ:

“Đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần hậu, chính sự dùng lối kết thằng”

Lịch sử và khảo cổ học đã giúp cùng chứng minh. Những khai quật khảo cổ tại đồng bằng sông Hồng cho thấy rằng vào thời điểm khoảng từ thế kỷ thứ 7 TCN cho đến những năm đầu của thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên, tại vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã đã xuất hiện một nền văn minh khá rực rỡ. Xã hội tại đó đã phát triển đến mức mà người ta có thể tin rằng một nhà nước có vương quyền đã được thành lập. Những điều ghi chép trong Đại Việt Sử Lược có vẻ đã phù hợp với những gì tìm được dưới lòng đất.

Nhưng vương triều đó có phải là thật sự có tên là Hùng Vương hay không? Câu hỏi này này có lẽ cũng khó giải quyết như câu hỏi liệu có một nàng Helen xinh đẹp khiến tạo ra trận chiến thành Troy hay không.

Truyền thuyết và tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam thì khẳng định rằng có một triều đại của các vua Hùng kéo dài trên 2000 năm từ thiên niên kỷ thứ ba cho đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Ngọc phả đền Hùng tại Phú Thọ còn có đủ phả hệ của các vua Hùng với tên tuổi cùng thời gian trị vì. Tuy nhiên ngọc phả này khó có thể tin được vì chỉ được viết ra vào thế kỷ thứ 18. Lại nữa hiệu của các vua Hùng trong ngọc phả toàn bằng chữ Hán Việt, một điều không thể xảy ra được khi vào thời đó chúng ta hoàn toàn chưa tiếp xúc gì với người Hán cả. Nhưng dù sao chăng nữa, truyền thuyết này cũng khẳng định rằng vào thời xưa người Việt chúng ta trước khi người Hán sang đã có một vị vua và đó là vua Hùng.

Vào khoảng những năm 20 của thế kỷ trước, một cuộc tranh luận đã nổ ra giữa các học giả chung quanh vấn đề Hùng Vương hay Lạc Vương. Henry Maspero, một học giả người Pháp vốn đã bỏ ra rất nhiều công phu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam chủ trương rằng phải gọi là Lạc vương chứ không thể gọi là Hùng vương được. Theo ông chữ Lạc và chữ Hùng trong Hán tự rất giống nhau vì vậy người ta có thể sao chép lại nhầm một cách dễ dàng. Và việc gọi Hùng Vương trong khi tất cả các từ khác, Lạc điền, Lạc dân, Lạc hầu, Lạc tướng là vô lý. Lý luận mà Maspéro và những người ủng hộ ông đưa ra trên đã bị đại đa số những người nghiên cứu về lịch sử Việt Nam bác bỏ vì một lý do chính và quan trọng nhất, truyền thuyết và tất cả những cổ tích và thần thoại Việt Nam chỉ nói đến Hùng Vương chứ không bao giờ nói đến Lạc Vuơng cả.

Mặc dầu vậy, nghi vấn mà Maspéro đưa ra vẫn là một vấn đề cần phải giải thích cho thỏa đáng. Phải đến những năm cuối của thập niên 60, những công trình nghiên cứu về ngữ học do những nhà nghiên cứu tại miền Bắc Việt Nam mới đem lại một số ánh sáng mới về vấn đề này. Theo một nghiên cứu của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc thì từ "Lạc" trong thư tịch của Trung Quốc viết về nước ta là một phiên âm từ "rạc" mà theo tiếng cổ Việt và tiếng Mường có nghĩa là "nước". Vì tiếng Hoa không có âm "r" cho nên họ đã viết thành "lạc". Còn về danh hiệu "Hùng" thì theo Trần Quốc Vượng là phiên âm của từ "khun" một từ cổ của các ngôn ngữ Nam Á có nghĩa là người cầm đầu, người tôn trưởng. Từ này hiện còn tồn tại tại nhiều ngôn ngữ hiện đại như tiếng Khmer, tiếng Thái và ngay cả tiếng Munda, một ngôn ngữ cùng thuộc họ Nam Á tại vùng Đông Bắc Ấn độ.

Nếu những lời suy luận này đúng thì tuy rằng vào thời kỳ vua Hùng ta quả có một vương triều thật, nhưng vương triều này có tên hiệu là gì thì đó là một điều mà ta không bao giờ biết được. Vương triều đó có niên đại xấp xỉ ngang với giai đoạn của nền văn hóa Ðông Sơn, bắt đầu từ khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Chúng ta tạm gọi thời kỳ đó là thời kỳ Hùng Vương.

Xã Hội dân Lạc dưới thời Hùng Vương

Lĩnh Nam Chích Quái mô tả lại cuộc sống của xã hội dưới thời các vua Hùng như sau:

- Tướng văn là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bố chính, thần bộc nữ lệ gọi là xảo, xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương không bao giờ thay đổi.

Lúc ấy, dân sống ở rừng và vùng chân núi, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại. Bèn nói với vua. Ðáp:"Giống sơn man và giống thuỷ tộc khác hẳn nhau. Giống thủy tộc yêu kẻ giống mình mà ghét kẻ khác mình cho nên hại nhau đó." Bèn bảo người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quốc. Từ đó không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xâm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đó.

Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy nước cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung đồ làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba, làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Phạt mương đốt rẫy, đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Bắc cây làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng núi. Ðẻ con ra, lấy lá chuối lót lên cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu giúp. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói muối (có thể là gói đất) làm đầu. Rồi giết trâu dê để làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân.

Căn cứ vào đoạn văn trên của Lĩnh Nam Chích Quái chúng ta có thể thấy xã hội Việt Nam thời Hùng Vương đã bắt đầu phân hóa thành giai cấp với tầng lớp quý tộc, các Lạc hầu, Lạc tướng ở trên và đa số dân chúng bình dân phục vụ cho tầng lớp này. Dưới tầng lớp bình dân là một tầng lớp nô lệ mà theo Lĩnh Nam Chích Quái gọi là sảo xứng. Cách tổ chức xã hội này cũng giống như tổ chức xã hội của nhiều dân tộc ở tình trạng phát triển tương tự như dân Việt thời Hùng Vương. Các khai quật khảo cổ cũng cho thấy rằng đã có một sự phân hóa trong xã hội như vậy. Các ngôi mộ khai quật được thuộc về thời đại này cho thấy hai loại khác biệt, một loại mộ có chôn theo rất nhiều đồ minh khí quý giá và một loại mộ không có bao nhiêu đồ minh khí chôn theo. Ðiều này đã xác minh rằng đã có một sự phân chia giai cấp trong xã hội thời đó. Tuy nhiên sự cách biệt giữa các tầng lớp xã hội chưa thật là sâu sắc, các hiện vật khảo cổ và phong tục mai táng cho thấy ngoại trừ số lượng đồ minh khí ngoài ra chưa có khác nhiều giữa các tầng lớp. Những câu chuyện cổ tích còn lại đến ngày nay như "công chúa Tiên Dung lấy Chử Ðồng Tử" hoặc là "vua tôi cùng đi cầy"; chuyện bánh dầy bánh chưng nói đến Lang Liêu và các con khác của Hùng Vương thi làm bánh đều cho thấy một xã hội mà phong tục tương đối còn thuần phác và bộ máy cai trị còn chưa phức tạp.
Nhà học giả người Pháp Henri Maspéro căn cứ trên những tập tục của các dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt thời đầu thế kỷ 20 đã giả thiết rằng xã hội của dân Lạc, dân Việt Nam dưới thời Hùng Vương, là một xã hội có đẳng cấp dựa trên những quyền lợi thế tập, tinh thần tương ái và lòng trung thành với cá nhân. Dân chúng sống thành những làng nhỏ mà hầu hết là có những quan hệ gia tộc với nhau dưới quyền cai trị của những Lạc tướng. Những giả thiết này phù hợp với những sử liệu còn sót lại và với những phát hiện của khảo cổ học.

Những Lạc tướng này có thể là những tù trưởng bộ lạc liên minh lại thành quốc gia. Người cầm đầu liên minh bộ lạc này là Hùng Vương. Hùng Vương là đại diện cho liên minh bộ lạc trong việc giao tế với các dân tộc miền núi và những bộ tộc láng giềng khác, nhưng có lẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của các bộ lạc. Chính Hùng Vương cũng là chủ của một bộ lạc có cơ sở tại Phong Châu.

Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong xã hội người Việt cổ. Truyện Tiên Dung và Chử Ðồng Tử cho thấy quyền của người con gái tự chọn người hôn phối vẫn còn được coi trọng. Và như sau này ta sẽ thấy khi dân Việt cổ đầu tiên nổi lên chống lại sự thống trị của Hán tộc họ đã nổi lên dưới ngọn cờ của những vị quần thoa.

Số lượng vũ khí chôn theo trong các ngôi mộ thời Ðông Sơn cho thấy dân Việt thời đó phải chịu những áp lực từ bên ngoài khá nhiều. Các câu chuyện về Phù Ðổng Thiên Vương, truyền thuyết Sơn tinh - Thủy tinh cho ta thấy rằng hiện tượng chiến tranh khá phổ biến dưới thời Hùng Vương. Tuy nhiên những chứng tích tìm được cho thấy rằng  thời Hùng Vương chưa có một quân đội thường trực mà chắc hẳn phần lớn những cuộc chiến tranh nếu xảy ra thì sẽ động viên nông dân để chiến đấu. Chuyện Phù Ðổng Thiên Vương cũng cho ta thấy tính cách đó.
Về kinh tế, những mô tả trong Lĩnh Nam Chích Quái, "phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy nước cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung đồ làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba, làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Phạt mương đốt rẫy, đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm" có lẽ chỉ tương ứng với giai đoạn đầu khi mà những bộ lạc tạo thành ra dân Việt cổ còn chưa tạo thành được một dân tộc. Sang đến thời Hùng Vương, dân Việt cổ đã biết làm ruộng lúa nước.  Thủy Kinh Chú dẫn Giao Châu Ngoại Vực ký, chép:

"Đời xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cầy bừa trên ruộng đó để sinh sống. Lạc vương và Lạc hầu cai trị những quận huyện. Ở mỗi huyện có Lạc tướng"

Ðiều đó chứng tỏ rằng trong giai đoạn sau của thời Hùng Vương, nghề trồng lúa nước đã bắt đầu được phổ biến. Trong những di vật tìm được còn có nhiều lưỡi cầy bằng đồng, một điều cho thấy rằng nông nghiệp đã phát triển qua giai đoạn "phạt nương, làm rẫy" (đao canh, hỏa nậu) mô tả trong Lĩnh Nam Chích Quái. Bên cạnh nghề trồng lúa, việc trồng các loại cây khác cũng phát triển. Sách vở và thư tịch Trung Quốc đã nhắc đến nhiều thứ cây của Việt Nam trong thời Bắc thuộc. Những thứ cây này chắc hẳn không phải đợi đến lúc người Hán sang mới bắt đầu được thuần hóa và đem gieo trồng. Nghề chăn nuôi cũng phát triển tuy rằng không tách khỏi trồng trọt. Ðông Nam Á là nơi đầu tiên thuần giống gà nhà và trong những di chỉ của thời Hùng Vương ta thấy có những tượng gà bằng đất nung và bằng đồng. Các gia súc khác mà xương được tìm thấy tại các di chỉ bao gồm chó, heo, trâu bò. Tuy rằng ngựa được nhắc đến trong chuyện Phù Ðổng Thiên Vương, nhưng các di chỉ không cho thấy xương cốt của loại này.

Tuy nông nghiệp đã phát triển, nhưng săn bắn và hái lượm vẫn đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của dân Việt cổ. Xương cốt của nhiều loại thú rừng đã được tìm thấy tại các di chỉ trong các giai đoạn khác nhau của thời đại Hùng Vương. Nghề đánh cá cũng phát triển. Người ta đã nhìn thấy nhiều lưỡi câu bằng đồng.

Bên cạnh nông nghiệp, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh. Nghề mộc, trong đó có nghề sơn đã đạt được một trình độ cao qua việc phát hiện những đồ minh khí bằng gỗ sơn màu nâu đỏ chất sơn rất tốt và kỹ thuật sơn cao. Nghề làm đồ gốm cũng đã phát triển khá cao. Người thời Hùng Vương đã biết làm gốm bằng bàn xoay với những hoa văn và trang trí khá đẹp tuy rằng không nhiều. Trong giai đoạn cuối đời Hùng Vương người ta đã sản xuất được đồ gốm cứng chứng tỏ rằng việc thiết kế lò nung đã được hoàn thiện.
Nhưng quan trọng nhất trong các ngành thủ công nghiệp thời Hùng Vương phải nói đến nghề luyện kim, đặc biệt là nghề làm đồng. Nghề luyện kim này đã xuất hiện từ giai đoạn sớm nhất của thời Hùng Vương mà người ta đã tìm thấy những cục đồng vụn, xỉ đồng hay rỉ đồng tuy rằng hiện chưa tìm thấy những di vật bằng đồng nguyên vẹn. Vào những giai đoạn sau, người ta đã tìm thấy khá nhiều công cụ bằng đồng thau và cả những khuôn đúc. Trống đồng Ðông Sơn là những hiện vật nổi tiếng, đặc trưng cho cả nền văn hóa thuộc vào thời kỳ này. Vào cuối giai đoạn Hùng Vương, khi nghệ thuật đúc đồng lên đến cao độ, thì nghề làm đồ sắt cũng bắt đầu xuất hiện. Một số hiện vật bằng sắt đã được đào lên ở những di chỉ vào cuối thời đại Hùng Vương chứng tỏ rằng kỹ thuật làm sắt mà nhiều người cho rằng do người Hoa đưa vào trong thời Bắc thuộc là không đúng.

Sự suy tàn của triều đại Hùng vương

Theo truyền thuyết được ghi lại trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư thì vào cuối thời Hùng Vương, vua có con gái là Ngọc Hoa Mỵ Nương nhan sắc xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Lạc hầu can rằng :"Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ đó thôi". Vua bèn thôi. Thục Vương vì thế đem lòng oán giận. Sau vua gả con cho Sơn tinh, Thục vương dặn con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Ðến đời cháu là Thục Phán, có dũng lược, muốn thực hiện chí của tiền nhân nên dấy quân đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang. Lúc đó là vào cuối đời nhà Chu bên Trung Quốc. Triều đại Hùng Vương truyền được 18 đời đến đó là chấm dứt. Tuy nhiên nền văn minh của dân Việt cổ vẫn còn tiếp tục cho đến vài trăm năm sau nữa mới hoàn toàn bị suy thoái.

An Dương Vương là nhân vật được lịch sử ghi chép đầu tiên của nước ta. Tên tuổi, danh hiệu ông và tên nước Âu Lạc của ông được ghi chép đầu tiên trong bộ Quảng Châu Ký được viết ra vào đời Tấn. Sau đó các bộ Thủy Kinh Chú và Việt Kiệu Thư cũng đều nhắc đến An Dương Vương. Nhưng những chi tiết về cuộc đời của ông ngay đến cả thời gian tồn tại của nước Âu Lạc cũng đều bị chìm đắm trong màn đêm của huyền thoại. Cho đến địa điểm mà ông xây thành làm kinh đô cũng không được hoàn toàn xác định. Cái tên Cổ Loa mà người ta đặt cho thủ đô của ông cũng là cái tên mà người đời sau đặt ra. Cổ Loa, nghĩa đen là cái thành cổ hình xoắn ốc chỉ là cái tên tượng hình cho di tích của tòa thành còn lại được coi như là của An Dương Vương xây, chứ còn tên thật của nó mà An Dương Vương đặt ra thì không còn ai biết. Cái tên Cổ Loa chỉ xuất hiện từ khoảng thế kỷ thứ 15 trong các tài liệu của Việt Nam như Lĩnh Nam Chích Quái, hoặc Dư Ðịa Chí và Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư. Trước đó, trong những tài liệu của Trung quốc chỉ thấy nhắc đến những tên như Việt Vương Thành, hoặc Việt Vương Cổ Thành.

Từ những huyền thoại và truyền thuyết đó, cộng với một chút sử liệu còn sót lại chúng ta chỉ biết được một cách đại cương rằng có một ông vua, có thể tên là Thục Phán, đã đánh chiếm nước Văn Lang của Hùng Vương, xưng hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc. Nước này sau đó bị Triệu Đà từ phương bắc tới xâm lăng. An Dương Vương tổ chức kháng cự, nhưng rốt cuộc đã bị thua và đất nước rơi vào sự thống trị của họ Triệu. Nhân vật Triệu Đà và cuộc xâm lăng Âu Lạc đã được ghi chép trong sử liệu của Trung Quốc, nhưng còn An Dương Vương và những gì xảy ra trước đó thì hầu như là hoàn toàn chỉ được nói đến trong truyền thuyết Việt Nam mà thôi.

Những sử liệu của Trung quốc chỉ nhắc đến giai đoạn sau của triều đại An Dương Vương khi ông chống nhau với Triệu Ðà, thành ra, về việc khởi nghiệp của An Dương Vương chúng ta phải quay trở lại các nguồn sử liệu Việt Nam mà quan trọng nhất là các bộ Lĩnh Nam Chích Quái và Việt Điện U Linh Tập. Trong truyện "Thần Kim Quy" Lĩnh Nam Chích Quái viết:

"Vua An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục, tên Phán. Nhân vì tổ phụ khi trước cầu hôn lấy Mỵ Nuơng là con gái Hùng Vương nhưng không được nên mang oán. Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đánh Hùng Vương diệt nước Âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt Thường"

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại gần giống hệt như Lĩnh Nam Chích Quái, chỉ nói khác rằng vua đóng đô và xây thành Cổ Loa tại Chu Diên. Sau đó các bộ sách khác như Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú cũng ghi chép về An Dương Vương và nước Âu Lạc với nội dung tương tự. Việt Thường, Chu Diên là tên của các huyện mà các triều đại Trung Quốc lập ra về sau này. Việt Thường theo các bản địa lý cổ nằm tại châu Hoan, tức là vùng Nghệ An bây giờ, trong khi Chu Diên thì nằm tại khu vực tây và nam sông Thái Bình tương đương với vùng Hải Dương, Thái Bình hiện nay. Cả hai chỗ đều không trùng với địa điểm Cổ Loa hiện nay mà người ta vẫn công nhận là thành của An Dương Vương.

Phải cho tới thế kỷ thứ 19 một số sử thần triều Nguyễn mới tỏ ý hoài nghi về một số điểm ghi chép ở trên nhất là ở điểm An Dương Vương là người Ba Thục. Có người như Nguyễn Văn Siêu đã thẳng thắn nghi ngờ cả sự tồn tại của thành vua Thục trên đất nước Giao Chỉ. Lý do chính khiến người ta hoài nghi là không những từ Việt Nam hiện nay đến vùng Tứ Xuyên là nơi đất Ba Thục thời xưa cách nhau một khoảng rất xa và phải đi qua nhiều vương quốc khác vào thời đó, mà còn bởi sự kiện rằng trước khi An Dương Vương xuất hiện gần một thế kỷ thì nước Thục đã không còn tồn tại nữa, vì đã bị nước Tần tiêu diệt vào năm 315 Trước Công Nguyên. Ngay cả trong trường hợp Thục Phán là hậu duệ của các vua Thục thì trong thời gian gần một trăm năm đó, gia đình ông cũng phải kiếm một nơi nào để sinh sống.

Một số học giả đã tìm cách để giải thích khó khăn này trong đó giải thích của Đào Duy Anh được khá nhiều người ủng hộ. Theo ông thì sau khi nước Thục bị diệt vong, con cháu vua Thục chạy sang tá túc tại Sở. Đến khi Sở mất nước thì họ chạy xuống phía nam đến vùng Vân Nam lập một nước Thục khác có tên là Tây Thục. Trong sử Trung Quốc (Hậu Hán Thư - Nam Man Tây Nam Di Truyện) có chép đến nước này trong mục Ai Lao Di chính là nước Thục đó.  Như một trong những người ủng hộ thuyết này đã viết:

"Cuối đời vua Hùng, Thục Phán đã từ đây mà xuống xâm lược nước ta. Đó là một cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt. Cuối cùng nước Văn Lang bị tiêu diệt.... Nước Tây Thục (Ai Lao di) này nằm sát nước ta ở tây bắc, nó nằm trên trục giao thông chủ yếu của nước ta với miền Tây Nam đi qua thung lũng sông Hồng, sông Lô; Tây Thục cũng là một trạm trung gian trên con đường giao thông quốc tế thời cổ giữa những nước phía Tây như Ấn Độ cổ đại...Đến đời Hán Minh Đế, Ai Lao thuộc hẳn về nhà Hán, Hán chia đất đó thành hai huyện Ai Lao và Bắc Nam, sau đổi thành Vĩnh Xương nay tức là châu tự trị Đức Hoằng thuộc tỉnh Vân Nam."

Tuy nhiên những người chống lại cho rằng đây là một thuyết dựa vào quá nhiều ức đoán. Đặc biệt người ta đã chỉ ra rằng trong thời cổ, việc giao lưu giữa Giao Châu và Ích Châu chỉ hạn chế đến Điền (một vương quốc cổ thuộc khu vực phía Nam tỉnh Vân Nam hiện nay) chứ không bao giờ lên đến vùng Ai Lao Di cả. Ai Lao Di cũng chưa từng bao giờ trở thành một nước hùng mạnh để phát triển và đe dọa Giao Châu cả. Đặc biệt, trong thời Tần Hán, Điền là một bức tường chắn ngang đường giao lưu giữa Bắc và Nam và giữa Trung Quốc với Miến Điện, Ấn độ ngày nay.

Về niên đại thành lập và thời gian tồn tại của nước Âu Lạc ta cũng có nhiều nghi vấn. 

Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược đã chép theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và cho niên đại của nước Âu Lạc từ năm 257 trước Công Nguyên cho đến 208 trước Công Nguyên. Việc chọn niên đại này dựa trên một câu của Ðại Việt Sử Lược, cuốn sách sử xưa nhất của Việt Nam còn tồn tại viết vào cuối đời Trần, nói rằng Hùng Vương mất nước vào những năm chót của nhà Chu:"Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay"

Theo sử Trung Quốc, Chu bị Tần diệt vào khoảng năm 256 TCN. Nếu Hùng Vương bị mất nước vào tay Thục Phán trước khi nhà Chu bị diệt thì sự kiện đó phải xảy ra muộn nhất là vào năm 256 TCN. Có lẽ chính vì vậy, nên mà các sử gia ta đã chọn năm 257 TCN là lúc mà nước Văn Lang bị diệt vong. Còn tại sao lại chọn năm chót của triều đại An Dương Vương là năm 208 TCN? Hiện chúng ta không biết các sử gia thời trước căn cứ vào đâu để chọn niên điểm này là lúc kết thúc thời kỳ An Dương Vương. Căn cứ vào sử Trung Quốc năm 208 TCN là năm Tần Thủy Hoàng chết, Tần Nhị Thế bãi binh xâm lược vùng Bách Việt.

Một số sử gia miền Bắc tuy vậy lại cho rằng triều đại An Dương Vương trễ hơn. Sự qua đời của Tần Thủy Hoàng chính là nguyên nhân mà một số sử gia Hà Nội đã chọn lựa năm 208 TCN như là niên điểm bắt đầu việc An Dương Vương dựng nên nước Âu Lạc, với mốc cuối cùng cho sự diệt vong của nước Âu Lạc được đặt vào năm 180 TCN. Những lý do mà các sử gia Hà Nội lựa chọn những niên điểm như vậy sẽ được trình bày trong phần sau.

An Dương Vương dựng lên nước Âu Lạc đúng vào lúc toàn bộ vùng Hoa Nam rơi vào một cuộc khủng hoảng lớn. Chính vì vậy muốn hiểu rõ hơn về An Dương Vương và đất nước Âu Lạc của ông chúng ta cần phải tìm hiểu thêm bối cảnh lịch sử của vùng này vào những năm cuối của thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên.

Năm 222 TCN, Tần Vương Chính tức Tần Thủy Hoàng Ðế về sau này, sai Vương Tiễn mang 60 vạn quân diệt nước Sở, lúc mang quân về vòng qua Sơn Đông, diệt nước Tề thống nhất Trung Quốc. Năm 221 TCN Tần Vương tự xưng là Tần Thủy Hoàng Đế đồng thời cử 50 vạn quân chia làm 5 đạo đánh vùng Lĩnh Nam. Năm đạo quân này do Đồ Thư chỉ huy chia làm ba đường, hai đạo quân đi đường thủy đánh Nam Việt, một đạo quân đánh Đông Âu và Mân Việt và hai đạo quân đánh Tây Âu. Chiếm đất đặt ra ba quận Quế Lâm (miền đông tỉnh Quảng Tây); Nam Hải (tỉnh Quảng Đông hiện nay) và Tượng (miền tây tỉnh Quảng Tây và miền nam Quý Châu hiện nay) Nam Việt, Mân Việt và Đông Âu không tạo ra nhiều vấn đề, nhưng đạo quân Tần tấn công vào Tây Âu đã gặp sức đề kháng mãnh liệt của dân chúng. Phải mất ba năm, quân Tần mới dành được những thắng lợi đầu tiên khi vào năm 219 TCN vua Tây Âu tử trận. Nhưng không vì vậy mà dân Bách Việt chịu hàng phục nhà Tần. Hoài Nam Tử kể lại cuộc xâm lược của nhà Tần vào đất Bách Việt như sau:

"Người Việt bỏ trốn vào trong rừng, sống chung với cầm thú, không ai chịu làm nô lệ cho người Tần cả. Họ chọn những người kiệt hiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người và giết được đô úy là Đồ Thư."

Cuộc tiến quân về phía Nam của nhà Tần như vậy là bị sa lầy trên các vùng rừng và núi của tỉnh Quảng Tây. Không có đủ quân trấn đóng, nhà Tần phải gởi thêm lính đến trú đóng ở các vùng mới chiếm được này. Những thành phần binh lính là những người đào vong, tù tội, người nghèo ở gởi rể (chuế tế), lái buôn. Họ ở hỗn cư với dân Bách Việt. Tuy nhiên những đám quân Tần này vẫn bị hoàn toàn cô lập với nhân dân địa phương đến nỗi năm 214 TCN khi Triệu Đà được cử vào làm chức Úy quận Nam hải đã phải dâng biểu về triều xin cấp cho ba vạn đàn bà góa hoặc con gái chưa chồng để "may vá quần áo cho quân sỹ". Triều đình nhà Tần chỉ gởi được có một vạn năm ngàn người. Tình hình cứ như vậy cho đến khi Tần Thủy Hoàng chết. Tư Mã Thiên cũng đã tả tình cảnh quân Tần như sau:

"Đương bấy giờ nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía Nam thì mắc họa với người Việt. Đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được thoái cũng không được. Trong hơn mười năm, đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta tự thắt cổ trên cây ở dọc đường, người chết trông nhau. Kịp khi Thủy Hoàng Đế băng, cả thiên hạ nổi lên chống."

Tần Thủy Hoàng Đế băng vào năm 209 TCN. Năm sau Tần Nhị Thế ra lệnh bãi binh tại Bách Việt.

Cuộc chiến tại vùng Hoa Nam tuy có tính cách khốc liệt như vậy, nhưng không thấy có ảnh hưởng bao nhiêu tới vùng đất của người Lạc. Truyền thuyết dân gian của Việt Nam hầu như không nhắc nhở gì đến cuộc kháng chiến chống nhà Tần của các dân tộc Bách Việt. Câu chuyện độc nhất được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái có liên quan đến sự kiện này là truyện "Lý Ông Trọng" trong đó kể lại An Dương Vương dâng Lý Ông Trọng cho Tần Thủy Hoàng để quân Tần không đánh nước ta. Tuy nhiên việc nhà Tần tiến đánh vùng Lĩnh Nam đã là một khúc quanh lịch sử quan trọng đối với Việt Nam vì đây là lần đầu tiên mà ta tiếp xúc với văn minh của người Hán, và từ đó dẫn đến việc nước ta trở thành một quận huyện của đế quốc Hán mở đầu cho sự chuyển hoá của dân ta từ Lạc trở thành Việt. Nhưng đó là câu chuyện về sau.

Trong những thập niên 1960 và đầu 1970, vì những lý do chính trị, các sử gia Hà Nội đã tìm cách chứng minh rằng dân Lạc cũng tham gia vào cuộc kháng chiến chống nhà Tần và Thục Phán chính là một lãnh tụ của cuộc kháng chiến đó. Theo họ, Âu Lạc, Tây Âu và Tây Âu Lạc cũng là một, và trong cuộc chiến chống Tần đó các bộ tộc Lạc và Âu đã liên minh cùng cử "người kiệt hiệt" lên làm tướng đánh quân Tần. Người kiệt hiệt đó chính là Thục Phán. Chỉ sau khi Tần Nhị Thế bãi binh thì liên minh Âu và Lạc mới tan vỡ và Thục Phán đánh Hùng Vương diệt nước Văn Lang. Một số người còn đi xa hơn nữa, nói rằng không có cuộc chiến Hùng Thục mà sau kháng chiến chống Tần thành công, Hùng Vương cảm thấy già yếu đã tự động nhường ngôi cho Thục Phán chính thức hóa cuộc liên minh giữa Âu và Lạc.

Những lý thuyết đó phục vụ cho quan điểm chính trị đương thời nhiều hơn là quan điểm sử học. Chúng bỏ quên một số những sự kiện về địa lý lịch sử cũng như về nhân văn. Căn cứ vào các dữ kiện còn lại trong Sử Ký, Hán Thư và Hoài Nam Tử ta có thể thấy rằng quân đội nhà Tần lúc đó tiến tối đa là tới khu vực thượng lưu sông Tây Giang mà thôi, còn cách biên giới nước ta cả mấy trăm cây số. Khó có thể tưởng tượng rằng lúc đó, với Hùng Vương chỉ như thủ lãnh của một liên minh bộ tộc lại có thể gởi quân đi hàng trăm dậm giúp đỡ một đất nước khác mà mình không có liên hệ.

Trên phương diện quân sự, những điều kể lại trong Hoài Nam Tử và Sử Ký cho ta thấy cuộc chiến du kích đã xảy ra sau khi Tây Âu bị quân Tần chiếm mà thôi. Vì vậy, mặc dầu dân Bách Việt sau này có giết được Đồ Thư, nhưng họ vẫn không giải phóng được đất nước của họ. Sau này khi Triệu Đà lập nước Nam Việt, áp dụng những chính sách chiêu dụ thì cuối cùng đã tạo ra được sự lắng dịu và làm cho dân chúng Bách Việt chấp nhận quyền cai trị của nhà Triệu.

3.4 Nguồn Gốc An Dương Vương và cuộc chiến Hùng Thục

Nguồn gốc An Dương Vương

Trong khi tìm hiểu nguồn gốc của An Dương Vương có hai yếu tố mà tất cả mọi câu chuyện về ông đều nói tới: đó là tên nước Âu Lạc mà ông đặt ra và việc ông đóng kinh đô trên đất của người Lạc, dù rằng tại Cổ Loa hiện nay hay là tại một nơi khác như Nghệ An mà một số nhà khảo cứu đã đề ra.
Mặc dầu việc sự cố ý nhầm lẫn nước Âu Lạc với Tây Âu là một điều không chấp nhận được, nhưng các học giả Hà Nội đã có một phần nào đúng khi chú ý đến từ "Âu" trong tên nước Âu Lạc.

Các bộ sử cổ của Trung Quốc như Sử Ký của Tư Mã Thiên cho thấy khi nước Việt của Câu Tiễn bị Sở diệt vào năm 333 TCN, con cháu vua Việt và các nhà quý tộc Việt chạy về Lĩnh Nam và thành lập một số những quốc gia tại vùng này. Tên của những vương quốc mà họ thành lập hầu hết đều có hoặc từ "Việt" như Nam Việt, Mân Việt hoặc từ "Âu" như Đông Âu, Tây Âu. Ở miền Nam Triết Giang (địa bàn của nước Việt cũ) hiện còn một con sông có tên là Âu giang. Nơi đây vốn là trung tâm điểm của nền văn hóa của nước Việt cổ thời Chiến Quốc. Với những điều chúng ta biết về lịch sử của những cuộc di dân trong thời cổ đại, ta có thể khẳng định rằng đại đa số dân Việt đó không rời bỏ quê hương của họ. Chỉ những thành phần thống trị, giới quý tộc cùng với những cận thần của họ mới lìa bỏ quê hương mà đi. Những người này thông thường tụ họp thành những băng đảng có vũ trang giống như những băng đảng rợ Goth, rợ Frank hoặc Anglo Saxon tấn công vào biên thùy của thế giới La Mã trong những ngày cuối của đế quốc này.

Những nhóm vũ trang như vậy, phần lớn là những binh sỹ chuyên nghiệp nên thông thường có thể đánh bại binh đội của các bộ tộc nông dân như của nước Văn Lang vốn không có một đội quân thường trực mà thường chỉ khi có giặc mới động viên nhân dân mà thôi.
Thục Phán có lẽ là lãnh tụ của một trong những đám đó. Tên của ông cho thấy có thể có một quan hệ nào đó với nước Thục. Nhưng nước Thục đó đã bị tiêu diệt từ trên một trăm năm trước. Có thể rằng ông đã tỵ nạn tại Tây Âu, nơi mà những quý tộc Việt dựng lên một đất nước mới sau khi bị Sở diệt. Có thể rằng ông cùng những người Tây Âu khác đã chạy trốn trước sức tấn công của quân Tần và tới nước Văn Lang của Hùng Vương rồi nhân thế tấn công chiếm đoạt nước này. Điều chắc chắn là ông không phải là người Lạc mà là một người Việt thuộc giòng giống Bách Việt. Chính vì vậy những lý luận cho rằng cuộc chiến Hùng Thục chỉ là một cuộc chiến nội bộ giữa hai bộ tộc của một dân tộc Lạc có lẽ là không đúng.

Điều đáng chú ý là những tài liệu xưa nhất của Trung Quốc đã không nhắc nhở gì về đất nước của Thục Phán cả. Quảng Châu Ký chép rằng:
"Binh tướng Thục Vương Tử đánh bại Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê"

Giao Châu Ngoại Vực Ký thì chép:

"Sau ba vạn binh tướng Thục Vương Tử đánh bại Lạc vương, Lạc hầu, khuất phục các Lạc tướng. Thục Vương Tử tự xưng là An Dương Vương"

Nam Việt Chí cũng chép:

"Sau ba vạn binh tướng của Thục Vương Tử đánh diệt Hùng Vương"

Các sử gia cổ đại Trung Quốc luôn luôn cẩn thận ghi chép khi một nước này bị diệt bởi một nước khác. Điều này cho thấy Thục Phán có thể coi như là người cầm đầu một đạo quân chứ không hề là người đứng đầu một quốc gia như ta tưởng. Nhưng như vậy nó cũng phù hợp với một sự kiện khác mà bình thường có thể khiến ta ngạc nhiên. Tất cả các thư tịch của Trung Quốc cũng như của Việt Nam đều nói An Dương Vương đóng đô tại Phong Khê (Cổ Loa), tức là ngay chính giữa trọng tâm của nước Văn Lang. Nếu Thục Phán đã là vua của một nước, dù rằng đó là một nước láng giềng với Văn Lang chăng nữa (có thuyết nói rằng nước của Thục Phán nằm tại vùng Cao Bằng hiện nay) thì ông không có lý do gì mà lại dời kinh đô của mình đến một nước mà mình mới chiếm được. Nhất là khi kinh đô mới ấy nằm ngay giữa nước địch, cách xa đất nước của mình.

Cuộc chiến Hùng Thục

Tuy không một sử liệu nào nhắc đến một cách chi tiết cuộc chiến Hùng Thục, nhưng chính những thiếu sót đó có thể cho ta đoán được rằng cuộc chiến này không khốc liệt là bao nhiêu. Chắc chắn là không đến nỗi khốc liệt như cuộc chiến giữa nhà Tần và các tộc Bách Việt.

Ta có thể tưởng lại diễn biến cuộc chiến Hùng Thục như sau:

Vào khoảng những năm cuối của thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, có một đoàn người, phần lớn là binh sỹ nhưng cũng có thể có thêm đàn bà, trẻ con - những người đi tháp tùng trong các đạo quân thời cổ - mệt mỏi tiến từ Quảng Tây hướng về phía Việt Nam hiện nay. Những người này có lẽ là người Tây Âu, thuộc chủng tộc Tày-Thái hiện nay. Họ đã phải bỏ chạy trước sức đánh vũ bão của bạo Tần. Thủ lãnh của họ là Thục Vương Tử, giòng dõi của một triều đại mà trước đó một trăm năm cũng đã bị Tần tiêu diệt và đã ngụ cư ở đất Tây Âu sau khi nước Thục mất.

Tới vùng đất mà hiện nay là tả ngạn sông Hồng, vùng trải từ Tuyên Quang, Thái Nguyên xuống đến phía Bắc sông Đuống, họ dừng lại và định cư ở đó. Để tưởng nhớ đất cũ, họ đặt tên cho vùng đất mới này là Tây Vu (Vu theo các nghiên cứu về ngữ học là một biến thể của chữ Âu).

Nhưng khi định cư tại vùng đất mới này thì họ đã đụng với những bộ lạc đã sống sẵn ở đó, dân tộc Lạc thuộc chủng tộc Nam Á vốn đã tạo ra một liên minh bộ lạc mà thủ lãnh là Hùng Vương. Có thể là những người mới này xin gia nhập vào liên minh bộ lạc của Hùng Vương nhưng bị từ chối -  Truyền thuyết nói rằng Thục vương xin cưới Mỵ Nương con gái Hùng Vương nhưng không được. Các cuộc hôn nhân cổ đại thường thường vẫn mang một ý nghĩa chính trị, chính thức hóa một liên minh hay là việc gia nhập của một thành phần mới vào trong bộ tộc - và một cuộc chiến đã nổ ra.

Trong cuộc chiến này, Hùng Vương không được sự ủng hộ của các bộ lạc khác trong liên minh và vì vậy đã thất bại, phải nhường chức minh chủ cho người mới, chỉ còn giữ quyền cai trị bộ lạc cũ của mình là bộ Văn Lang mà thôi. Lãnh tụ mới của liên minh bộ lạc, Thục Phán, để kỷ niệm sự sáp nhập giữa hai tộc người này mới ghép tên hai bộ tộc vào nhau và đặt tên nước mới là Âu Lạc.

Những tưởng tượng của chúng ta về chuyện này có đúng hay không thì không ai có có thể biết. Tuy nhiên, một số những dữ kiện còn lại cho ta thấy rằng một sự tưởng tượng như vậy, ít nhất cũng khả chấp.

Những khảo sát về cổ nhân chủng học và cổ ngôn ngữ học cho thấy người Việt chúng ta tuơng đối khá đồng nhất. Những yếu tố Tầy-Thái trong ngữ ngôn tiếng Việt không nhiều khiến ta khó có thể cho rằng nước Âu Lạc được thành lập bởi việc sáp nhập hai tộc người khác nhau. Điều này buộc chúng ta phải chọn một trong hai giả thuyết. Một là An Dương Vương và bộ tộc của ông cũng là một tộc người Lạc như là các học giả Hà Nội vẫn đưa ra. Hai là, số lượng những người Tây Âu đi theo An Dương Vương rất nhỏ và họ đã bị đồng hóa vào cộng đồng người Lạc không để lại bao nhiêu dấu vết. Một cuộc điều tra về ngôn ngữ địa phương sử dụng tại vùng Đông Anh quanh khu vực Cổ Loa cũ vào khoảng những năm 1960 cho thấy tiếng nói của cư dân tại đây hoàn toàn là những tiếng Việt thông thường không có bao nhiêu khác biệt với tiếng Việt tại các vùng khác. Tuy nhiên nó cũng đưa ra được một số, tuy rằng rất ít, những từ đặc biệt địa phương mà người ta cho là tiếng Tày-Thái cổ tỷ như chữ "viềng" được dùng thay cho chữ "thành".

Nguyễn Linh trong bài nghiên cứu "Bàn về nước Thục của Thục Phán" đăng trong tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 124 xuất bản vào tháng 7 năm 1969 tại Hà Nội đã nghiên cứu một số lớn thần phả, ngọc phả (sự tích các thần thờ tại các đình làng) đã cho thấy rằng những ký ức dân gian về cuộc chiến giữa Hùng Vương và giặc Thục chỉ tập trung vào chung quanh khu vực Vĩnh Phúc Yên, tức là địa bàn của bộ Văn Lang trong mười lăm bộ tạo nên nước Văn Lang của Hùng Vương mà thôi.

Một yếu tố khác cho thấy An Dương Vương dựa vào một lực lượng quân đội thường trực là sự hiện diện những dấu tích của một công trình quân sự - thành Cổ Loa - Ngoài ra, kho tên đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực (Cổ Loa) năm 1959 là một phát hiện khảo cổ học hiếm thấy. Những đầu mũi tên đồng ba cạnh tương đối lớn về kích thước và khá đặc biệt về kiểu dáng này là cơ sở tốt để giải thích truyền thuyết về nỏ thần. (Việt Kiệu Thư “Âu lạc thời Tần rất mạnh, có phép dùng nỏ rất giỏi, một phát tên đồng có thể xuyên qua hơn chục người. Triệu Đà sợ lắm”) Việc xây dựng một thành to lớn như vậy cùng tích trữ những vũ khí tốn tiền và tốn kém công sức để thực hiện như những mũi tên đồng cho thấy An Dương Vương không thể nào dựa vào một lực lượng dân binh để phòng vệ được.

Ngoài ra, sau khi An Dương Vương đánh bại Hùng Vương rồi, các lạc hầu lạc tướng vẫn còn tiếp tục giữ nguyên quyền hành của họ tại các vùng họ cai trị. Ngay cả con cháu Hùng Vương vẫn còn tiếp tục trị vì tại Mê Linh; Hậu Hán Thư khi thuật lại chuyện Hai Bà Trưng cũng đã viết bà Trưng là con gái lạc tướng Mê Linh vốn giòng họ Hùng.

Những chuyện xảy ra như vậy cho thấy nước Văn Lang của Hùng Vương cũng như là Âu Lạc của An Dương Vương chưa trở thành một quốc gia như ta hiểu sau này mà chỉ là những liên minh bộ tộc trong đó nhà vua, dù rằng Hùng Vương hay An Dương Vương đều không có quyền hành tuyệt đối với các chức quan dưới quyền mình.

Truyền Thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh và những dấu tích của một sử thi Việt Nam

Người Việt chúng ta hiếm có ai mà không biết đến truyện Sơn Tinh Thủy Tinh trong đó hai vị thần đều đến cầu hôn Mỵ Nương con vua Hùng vương thứ 18. Sơn Tinh biện được đồ lễ trước và cưới được Mỵ Nương còn Thủy Tinh đến sau tức giận bèn dâng nước lên đánh. Từ đó hàng năm cứ đến mùa lũ người ta tương truyền rằng đó là Thủy Tinh dâng nước lên để đánh báo thù.

Ngoại trừ sự kiện là cuộc tranh chấp Sơn Tinh Thủy Tinh xảy ra vào cùng thời với việc Hùng Vương mất nước, ít ai chúng ta lại nghĩ rằng truyền thuyết này có liên hệ tới cuộc chiến Hùng Thục. Nhưng những nghiên cứu về các thần tích tại các đình và đền thờ tại vùng Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ trong những năm 1960 tại miền Bắc đã tìm ra một loạt những câu chuyện nói về Sơn Tinh và các bộ hạ của ông trong cuộc chiến giữa Hùng Vương và Thục Vương.

Ngọc phả để tại đền Hùng tương truyền là do Nguyễn Cố soạn vào năm 1470 chép lại rằng:

"Đời Hùng Vương thứ 17, giữa vua Hùng và vua Thục có quan hệ láng giềng tốt với nhau. Sang đời Hùng Vương thứ 18, Sơn Tinh lấy được Mỵ Nương và vua Hùng định nhường ngôi cho con rể. Trước đó Hùng Vương đã từ chối không gả con gái cho vua Thục. Vua Thục đem quân đánh Hùng Vương. Nhờ Tản Viên (tức Sơn Tinh) giúp sức, Hùng Vương đánh tan được quân Thục, nhưng sau đó nghe lời khuyên của Sơn Tinh, Hùng Vương nhường ngôi cho vua Thục rồi cả Hùng Vương lẫn Sơn Tinh cùng hoá."

Khảo sát về các thần tích khác trong địa bàn Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ, Nguyễn Khắc Xương đã đưa ra một loạt những câu chuyện dân gian về những vị thần và những con người giúp Hùng Vương chống cự lại An Dương Vương. Những truyện như Hùng Lộc Đại Vương bị kẻ địch chặt đứt đầu đã tự lấy vải buộc cổ lại tiếp tục chiến đấu cho đến khi địch rút. Đến khi chạy tới một cái cầu ở xã Xuân Vi, ông hỏi một bà hàng bán nước bên đường: "Người đứt đầu thì còn sống được không?" Bà hàng đáp: "Ông nói lạ, người đứt đầu thì làm sao sống được?" Ông bèn xuống ngựa, nằm trước quán, để giáo ngang người mà chết. Chỗ ấy mối đùn lên thành mộ. Làng bèn thờ ông làm thần. Hoặc chuyện Đinh Công Tuấn ở Lâm Thao đã chiến đấu quyết liệt chống lại An Dương Vương. Khi bị An Dương Vương đuổi ông đã nhẩy xuống sông Thao chứ không chịu đầu hàng.

Những thần tích này phảng phất còn giữ được những cốt lõi của các câu chuyện dân gian nhưng đã được chế biến lại qua ngoài bút của các nhà nho (hầu hết các thần tích và ngọc phả này được viết lên vào đời Lê). Chúng có thể là những dấu tích của những sử thi của người Lạc thời xưa tương tự như Illiad hoặc Mahabharata, nhưng tiếc là không có một cây bút thiên tài như Homer để hoàn thành một sử thi toàn hảo.

Xã Hội Việt Nam dưới thời An Dương vương

Căn cứ vào những gì ta biết về các xã hội cổ đại, cộng với những dữ kiện ta biết về nước Việt Nam thời Âu Lạc, ta có thể có một số phỏng đoán về xã hội Âu Lạc dưới thời An Dưong Vương. Đây là một xã hội nông nghiệp được tổ chức theo kiểu thị tộc. Mỗi thị tộc có một vùng đất riêng của mình và được cai trị bởi một người mà theo truyền thống ta cứ gọi là Lạc Tướng. Trái với Hùng Vương, An Dương Vương không có một thị tộc nào của riêng mình cả. Ông chỉ là một lãnh tụ quân sự.

Sự kiện này phảng phất giống như tình trạng tại nước Anh dưới thời của vua Arthur, không phải vua Arthur trong thần thoại và cổ tích với các hiệp sỹ ngồi quanh bàn tròn và những chuyến đi hành hiệp, mà là vua Arthur lịch sử của thời kỳ chống lại sự xâm lăng của những người Anglo Saxon. Vào thời đó nước Anh của những người Celt được chia ra thành rất nhiều vương quốc nhỏ, mỗi vương quốc chỉ tương đương với một tỉnh của nước Anh bây giờ tức là về độ lớn thì cũng sấp xỉ tương đương với một bộ của nước ta dưới thời Hùng Vương và An Dương Vương. Nennius, trong cuốn lịch sử nước Anh của ông viết vào thế kỷ thứ 9 viết:

- Arthur không phải là vua, nhưng ông chỉ huy các vua trong các trận đánh.
Và cũng như Arthur có một đội quân chuyên nghiệp của mình và chỉ trông cậy vào sự trợ giúp phần nào của các dân binh mà các vị vua dưới quyền ông chiêu mộ, An Dưong Vương cũng có một đội quân chuyên nghiệp của ông, có lẽ bao gồm những người đi theo ông trong quá trình chạy xuống phương Nam, nhưng sau đó chắc hẳn có tuyển mộ thêm từ các bộ tộc thời Hùng Vương.

Cố nhiên đây chỉ là những phỏng đoán, ta không có một bằng chứng nào có thể xác nhận được chuyện này. Nhưng ngay cả cái tên xưng của ông cũng cho ta thấy một ít lý do rằng những phỏng đoán này có một phần nào sự thật. An Dương Vương là một cái tên rất Hán. Nó có nghĩa là yên biển. Chắc chắn là vào thời An Dương Vương nước ta chưa Hán hóa đến mức mà nhà vua phải xưng hiệu của mình bằng một cái tên rất tầu như vậy. Từ "An Dương" làm ta liên tưởng đến từ "Phục Ba" một tước hiệu của Mã Viện. Phải chăng An Dương Vương đã lấy hiệu là người đã chinh phục được những bộ lạc vùng sông biển? Và các sử gia người Hán sau này đã dịch ra tiếng Hán để trở thành An Dương Vương?

Thành Cổ Loa

 Nếu An Dương Vương là lãnh tụ một đội quân đi chinh phục một liên minh bộ lạc thì việc xây một tòa thành, một pháo đài cho mình và quân đội mình trú đóng là một chuyện tất nhiên. Truyện thần Kim Quy trong Lĩnh Nam Chích Quái kể lại rằng khi xây thành thì cứ đắp đến đâu thành lở đến đấy. Truyện kể rằng:

- Vua lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mùng bảy tháng ba, bỗng thấy một cụ già từ phương đông tới trước cửa thành mà than rằng "Xây dựng thành này biết bao giờ mà xong được?” Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành thế là cớ làm sao?" Cụ già đáp: "Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công", nói rồi từ biệt ra về.

Hôm sau vừa ra cửa đông chờ đợi bỗng thấy một con rùa vàng từ phương Đông lại, nổi lên mặt nưóc mà nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất âm dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói “Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước.” Bèn dùng xe bằng vàng rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì sao xây thành không được. Rùa vàng đáp "Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước, Lại có con gà trắng sống ngàn năm hóa thành yêu tinh, ẩn ở núi Phất Diệu Sơn..."

Những nghiên cứu về phong tục thực hiện vào trước năm 1945 cho biết tại miền Bắc có một số làng thờ gà làm thành hoàng, đồng thời tại một khu di chỉ gần đền Hùng người ta đã khai quật được những tượng hình đầu gà. Điều này gợi lên cho ta ý nghĩ rằng, gà có thể đã từng được thờ làm vật tổ tại một số bộ của dân Lạc. Và ở đất Cổ Loa xưa kia, có thể có một số những bộ mang tên gà hoặc thờ gà, bị An Dưong Vương lấy đất xây thành, đã nổi lên chống lại (chi tiết thành xây bị sụp đổ). Điều đó cũng được hình tượng thêm qua việc nhắc lại chuyện "con vua đời trước, muốn báo thù cho nước".
Còn thần Kim Quy thì sao? Rùa chắc chắn là vật tổ của những người Tầy-Thái cổ, những dân tộc thuộc Bách Việt thời đó mà có triển vọng là dân tộc gốc của An Dương Vương. Ở các vùng người Thái nay vẫn còn phổ biến tục thờ rùa và nhiều truyền thuyết về rùa.

Được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, An Dương Vương đã xây xong được thành Cổ Loa. Thật sự, Cổ Loa không phải là tên thành mà An Dương Vương đặt. Nếu hiểu theo nghĩa chữ thì Cổ Loa chỉ có nghĩa là thành soắn ốc xưa mà thôi. Tất cả các thư tịch cổ nhất như Việt Sử Lược, Lĩnh Nam Chích Quái của ta hay Việt Kiệu Thư của Trung Quốc chỉ nói đến An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường mà thôi. Tên Cổ Loa có lẽ chỉ xuất hiện từ cuối thời Lê, cùng lúc với việc xây dựng đền thờ An Dương Vương và Mỵ Châu ở bên trong vòng thành còn lại. Theo Ngọc Phả Hồng Đức, xã Cổ Loa thời trước có tên là trang Kim Lũ và còn có tên nôm là Kẻ Chủ, tức là làng chúa - hiểu theo nghĩa chữ nôm cổ "kẻ" có nghĩa là một làng hay một thị trấn, Hà Nội hồi xưa còn gọi là "Kẻ Chợ".

Mặc dầu những di tích còn lại của thành này cho thấy niên đại của chúng sớm nhất chỉ là vào đầu đời Đông Hán, nhưng có khả năng rằng dưới những di tích đó, dấu vết của toà thành thời An Dương Vương vẫn còn tồn tại. Nếu những di tích còn lại phản ảnh một phần nào tòa thành cổ của An Dương Vương thì theo nhận xét của những nhà khảo cổ thành Cổ Loa này là một công trình phòng thủ rất kiên cố và lợi hại, vừa là một căn cứ bộ binh, lại vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Điều này rất phù hợp với những gì chúng ta đoán về An Dương Vương.

Năm 1959, các nhà khảo cổ miền Bắc đã tìm được bên trong khu vực vòng thành Cổ Loa một kho tên đồng có chứa đến hàng vạn mũi tên đủ loại. Kho tên này đã làm ta nhớ đến một huyền thoại nữa có liên quan đến An Dương Vương và sự diệt vong của nước Âu Lạc, đó là huyền thoại về cây nỏ thần.

Chiếc Vuốt Rùa và Cây Nỏ Thần của An Dương Vương

Nỏ không phải là vũ khí thông dụng của người Hán, trái lại nó lại là một vũ khí rất thông dụng của các dân tộc Đông Nam Á. Ngay từ "nỗ" mà người Hoa dùng để gọi cây nỏ cũng là mượn từ các thứ tiếng Đông Nam Á mà ra. Nghề bắn nỏ của ta đã có từ lâu đời. Trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú có nhắc đến phép thi bắn nỏ của các triều đại Đại Việt về sau này, cũng như là sự phân biệt giữa lối bắn cung của bộ binh với bắn nỏ của thủy binh. Nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là bài biểu của Mã Viện tâu với vua Hán xin đi dẹp cuộc nổi loạn của nông dân ở Tứ Xuyên. Trong bài biểu này, được chép lại trong Thủy Kinh Chú, Mã Viện viết:

- Tôi xin đem theo hơn một vạn người Lạc Việt, có ba nghìn người tập quen chiến đấu, cung có tên độc, bắn một lần mấy phát tên bắn như mưa, trúng ai nấy chết.

Tam Quốc Chí có nhắc đến chuyện Gia Cát Lượng phát minh ra "nỏ liên châu" có thể bắn ra một lần mười phát tên. Phải chăng Khổng Minh đã học được cách chế tạo nỏ này trong lúc đi đánh Mạnh Hoạch ở phương Nam? Có thể việc phát minh ra vũ khí này được khởi thủy từ thời An Dương Vương và vì vậy người ta mới cho nó một gốc tích thần thoại như vậy. Lĩnh Nam Chích Quái viết rằng:

- Rùa vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về. Vua cảm tạ nói "Nhờ ơn của thần thánh đã xây được thành. Nay nếu có giặc ngoài đến thời lấy gì mà chống?" Rùa vàng đáp "Vận nuớc suy thịnh, xã tắc an nguy là do mệnh trời, nhưng con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi" Rồi tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói "Đem vật này mà làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa". Dứt lời trở về biển đông.
Việc xây thành Cổ Loa, cũng như việc tồn trữ những kho vũ khí trong thành cho thấy việc xây dựng nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương dựa trên việc vùng vũ lực hoặc là đe dọa dùng vũ lực đối với các thành phần khác của dân Lạc. Và vì vậy, khi lực lượng quân sự của An Dương Vương không còn đủ mạnh để chiến thắng một lực lượng khác, những Lạc tướng của Âu Lạc đã sẵn sàng đi theo kẻ chiến thắng.

Các khai quật khảo cổ cho thấy không có một sự đứt quãng nào trong văn minh Ðông Sơn cho đến tận cuối thời Tây Hán. Ðiều đó chứng tỏ rằng cuộc chiến giữa vua Hùng và An Dương Vương không liên quan gì đến đại số dân chúng bao nhiêu. Nói chung xã hội dân Lạc hay Việt cổ vẫn tiếp tục cuộc sống của họ như dưới thời Hùng Vương. Có khác chăng là ở trên tầng lớp cao nhất có một sự thay đổi. An Dương Vương chắc hẳn sau khi lên ngôi vẫn tiếp tục lối cai trị của Hùng Vương với các Lạc tướng tiếp tục cai trị khu vực của họ. Nhưng vào cuối cuộc đời của ông, một thay đổi lớn đã đến đó là cuộc xâm lược của Triệu Ðà.